Các tôn giáo thường Bái Thiên - Bái Địa hoặc Bái Nhân một cách thái quá, coi nhẹ vấn đề Quốc Gia & Dân Tộc căn bản của các nước được truyền đạo, nên gây ra sự mâu thuẫn, nhiều khi dẫn tới đối kháng đẫm máu.
Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo, Do Thái Giáo đều xác quyết rằng Thượng Đế của mình là thực tại tối thượng. Nhiều khi một số tư tưởng gia của các tôn giáo này còn cho rằng Thượng Đế của họ vĩ đại đến nỗi không lời nói trần gian nào có thể nói về Đấng Tối Cao này, nên mọi sự hoài nghi đều là phạm thượng, phải bị trừng phạt nghiêm khắc một cách vô lý - chẳng khác gì dưới chế độ Cộng sản... dám phát biểu ý kiến không tuân theo tư tưởng Marx & Lénine?!
Đức Phật Thích Ca tuy chỉ nhận mình như ngón tay chỉ đường tới với Thượng Đế, nhưng không hiểu do đâu bấy nay một số cao đồ lại tự thần thánh hóa mình, chia ra nhiều trường phái giảng giải và hành đạo khác nhau, như Đại Thừa (Bắc Tông), Tiểu Thừa (Nam Tông), Thiền Tông, Mật Tông, Tịnh Độ Tông... thậm chí tại Việt Nam sau này còn phong cho một tu sĩ mới 20 tuổi là Đại Đức - chữ để tôn xưng Đức Phật ngày xưa (Theo tài liệu về Phật Giáo của một tăng nhân nơi ngôi chùa rất lớn và uy thế ở Montreal phổ biến trên internet), rồi trên nữa là các chức vị có danh xưng không còn vẻ 'sắc sắc - không không', như Thượng tọa, Hòa thượng, Đại lão Hòa thượng, Thượng thủ Hòa thượng, Tăng thống?!
Việc các nhà tu hành gần đây còn tự nhận mình mang họ 'Thích' của Thích Ca, đã khiến không ít người bị lầm lạc, khi cho mình như thế là đã dứt bỏ cả tôn ti họ hàng, xã hội, quốc gia, dân tộc... lo đạo quên đời, một cách thiếu ý thức và trách nhiệm của người con, người dân; có thể vì quyền lợi và sự tồn tại của Đạo mà không còn nghĩ gì đến sự hưng vong của Quốc gia & Dân tộc - cụ thể như các tổ chức tôn giáo bị coi là 'quốc doanh'?!
Khổng Giáo thì coi nhà vua là Thiên Tử (con Trời), nên thay Trời trị người với mọi quyền 'Trời ban cho', trở thành những 'ông Trời Con' làm ác nhiều hơn làm thiện, nhưng lại coi ai trái ý vua là trái ý Trời - nào khác gì Cộng sản luôn mượn hai chữ 'nhân dân' để tác quái.
Còn Cộng sản Việt Nam thì nhập nhằng giữa Đảng với Tổ Quốc, rồi nhân danh Tổ Quốc để tung ra các điều luật chống Đảng là phản quốc, hầu có thể nặng tay trừng phạt dữ tợn hơn cả các lối trừng trị của một số tôn giáo khi bị thoái hóa một thời trước đây, cũng như của các chế độ phong kiến, quân chủ, thực dân, phát xít?!
Lão Giáo coi Trời như một đấng có quyền năng sinh hóa tối thượng, nên chủ trương 'vô vi', khuyên không được làm điều gì trái mệnh trời - như kiểu Khổng Giáo nhập thế hành đạo, bị Lão Giáo cho là phạm thượng.
Tóm lại, các tôn giáo và không ít thể chế chính trị xưa nay bằng cách này hay cách khác, đều chủ trương tôn thờ một Đấng Tối Thượng, dù vô hình hay hữu hình đều hiện diện khắp nơi, là bậc toàn năng, toàn trí, toàn thiện, nên ai nấy phải cúi đầu tuân phục vô điều kiện - không còn chú ý gì đến vấn đề Quốc Gia mới chính là mẫu số chung chính đáng & thiết yếu cho sự hội tụ đoàn kết thống nhất, giúp phát triển thăng hoa tốt đẹp nhất, đem lại hạnh phúc cho mỗi Dân Tộc?
Thực ra các Đấng Tối Cao của tôn giáo nào cũng là các bậc Thánh Hiền, muốn tìm cách giúp đời sống mọi người hạnh phúc, thánh thiện, vượt qua khổ ải.
Nhưng không ít các cao đồ vì cần phát huy bằng mọi giá để có thể cạnh tranh giành nhiều quyền lợi riêng tư, đã biến tôn giáo thành những lợi khí về chính trị, xã hội, văn hóa, tài chính, kinh tế... thậm chí không ngại ngần khủng bố sát phạt đẫm máu.
Thiên Chúa Giáo của hệ phái Vatican trước đây từng làm nhiều điều sai trái, đã khiến Giáo Hoàng John Paul II phải đứng ra tạ lỗi với nhân loại, về một quá khứ 200 năm phát triển theo đường lối bạo hành, đồng hành cùng bọn thực dân.
Giáo sĩ lãnh đạo Hồi Giáo ở Iran là Ali Khamenei, ngày nay về phe với tên tổng thống Ahmanidejad gian lận ăn cắp phiếu cử tri, đàn áp đẫm máu những người dân chân chính, trong sạch, can đảm sáng suốt đấu tranh cho tự do dân chủ và công bằng.
Các trường hợp cổ kim trên cho thấy một khi tôn giáo bị một số lãnh đạo kém ý thức, quá nhiều tham vọng, xa rời chính kiến hoặc tự tôn sùng quá đáng, đã làm cho suy vi; một thời đã trở thành tàn độc như thế nào, ác hại với đồng loại ra sao, đâu có khác gì các thế lực thế tục độc tài chuyên chính vô luân?!
Vì đã có mấy ai biết tuân thủ lời của Thánh Thomas d'Aquin, xem lòng yêu nước như sự sùng mộ - pietas - đối với quê hương, không thể tách rời với bổn phận thờ kínhThượng Đế, và trách vụ hiếu thảo với Cha Mẹ?!
Hoặc như lời dạy của Đức Giáo hoàng Léon XIII: 'Lòng yêu mến Giáo hội và lòng yêu Nước phát xuất từ một nguyên lý vĩnh cửu. Cả hai đều do Thượng Đế là tác giả và nguyên ủy'.
Trong khi đó sự bản địa hóa các tôn giáo của người Việt, từ lâu đã giúp các tu sĩ chăm lo cả việc Đạo và việc Đời, thực hiện tốt trách nhiệm công dân song hành với việc tu đạo, đã khiến các tôn giáo khi du nhập Việt Nam thăng hoa đến các cảnh giới cao đẹp, như phần trình bày tiếp theo sau phần viết này.
Qua các phần nêu trên, chúng ta thấy các tôn giáo trên thế giới xưa nay, đa số đã bị một số vị cao đồ sân si xây dựng hình thành theo mô hình một Tam Giác Cân Dựng Đứng cao ngất, mà đấng giáo chủ chót vót ngự trị trên đỉnh cao, xa rời nhân thế; biến Bái Thiên thành Bái Nhân, lắm khi còn biến người lãnh đạo tôn giáo chưa xứng đáng thành Giáo Chủ - như kiểu một số Giáo Hoàng, Tăng Thống... làm cho các tín đồ cảm thấy xa cách với Chủ Thể là Đấng Tối Cao, nhiều khi trở thành thấp bé hèn mọn, quay ra khúm núm qùy lạy van vái, hôn tay ôm chân cả người sống đáng tuổi con cháu mình, mất cả nhân phẩm lẫn tư cách - thay vì chỉ cần nghiêm trang bày tỏ sự kính mến các Đấng Tối Cao Siêu Hình?!
Trong khi đó ngay từ xa xưa, Người Việt Nam đã quan niệm một Vũ Trụ quan giữa Thiên - Địa - Nhân theo mô hình một Tam Giác Đều Nằm Ngang, thể hiện không chỉ sự bình đẳng, mà còn đề cao Nhân Hùng - nâng cao địa vị của Nhân để mỗi người phải lo hoàn thiện bản thân sao cho xứng với vị trí bình hòa danh dự trong thế Tam Tài 'Thiên - Địa - Nhân' của mình, qua việc tôn thờ Địa Linh & Nhân Kiệt phổ biến nơi các đình làng.
Đây chính là quan niệm Nhân + Trí = Hùng, từ lòng 'Nhân' qua nghiã 'đồng bào' của Mẹ Tiên Âu Cơ & kết duyên với 'Trí' qua việc 'tri hành hợp nhất' cùng theo con lo việc nước của Cha Rồng Lạc Long Quân & sinh ra các Vua Hùng, xây dựng nhân sinh quan 'Đồng Bào'.
Sự Bản Địa Hóa Tôn Giáo tại Việt Nam
Xuất phát từ ý nghiã thiêng liêng và chứa chan tình người qua hai chữ 'Đồng Bào' (mang ý nghiã 'chung & cùng' nhiều bề, khởi từ việc chung bào thai Mẹ, cùng dòng máu với nhau) do Mẹ Âu Cơ nêu lên từ thuở lập quốc gần 5.000 năm trước, Người Việt đã khai triển thành tình Đồng Hương, bao dung hầu có thể 'hòa nhập khi phải cư trú nơi hải ngoại cần hòa tan' với các nền văn hóa & tư tưởng khác; rộng lớn hơn hẳn các quan niệm khác như Đồng Chí, Đồng Môn, Đồng Song... khi tạo được sự 'đồng tình' mà không phân biệt tư tưởng, sắc tộc, tôn giáo, quốc tịch - là các vấn đề kỳ thị nguy hại, từng gây ra nhiều vấn nạn cho các nước trên thế giới xưa nay, chỉ vì các ý thức hạn hẹp sai lầm lâu đời không được chỉnh sửa, do quá ư tự cao, tự đại, tự mãn:
'Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
'Người chung một nước phải thương nhau cùng.
'Bầu ơi thương lấy Bí cùng,
'Tuy rằng khác giống, nhưng chung một dàn.
Vì coi mọi người là 'đồng bào' - theo tình ý cùng từ bào thai của Mẹ Âu Cơ sinh ra, cần chung sống hài hòa với nhau, nên Người Việt xưa đã tùy theo tuổi tác mà phân trên dưới, xưng hô với nhau như tình người cùng trong một dòng họ: cụ, ông, bà, bác, chú, cô, thím, dì, dượng, anh, chị, em, cháu, chắt... rồi nhận vai vế của mình cũng tùy theo tuổi tác như cùng trong một gia đình, chung dòng họ.
Ở Miền Bắc, nhiều làng vẫn còn theo tục lệ xưa trọng Nhân Tước hơn Thiên Tước, xếp thứ bậc theo tuổi tác cao thấp, đặt các vị cao niên ngồi trên các người địa vị lớn, đỗ đạt cao.
Ở Miền Nam chỉ nhờ một thời cách biệt Miền Bắc khoảng 200 năm do cuộc chiến tranh Trịnh Nguyễn... không chỉ ít bị ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc hơn, mà còn duy trì thêm lối xưng hô tùy theo thứ bậc sinh ra trong mỗi gia đình mà kêu là Bác Ba, Cô Tư, Anh Chị Năm... nên càng thêm thân mật, dễ hòa đồng hơn nữa.
Việc xưng hô này còn được Phật Giáo tại Việt Nam trước đây áp dụng trong hệ thống cấp bậc một cách thân tình, như Sư Cụ, Sư Ông, Sư Bác, Sư Bà, Sư Cô, Chú Tiểu... giúp Phật Giáo một thời đã có thể hòa đồng vào nếp sống dân tộc, đến mức độ ai không theo tôn giáo nào, tự coi như mình theo Phật Giáo?
Hồ Chí Minh nhờ biết áp dụng tình tự 'đồng bào', xưng bác rồi bề tôi xưng chú, dưới nữa xưng anh chị, em, cháu... đặt ra các bậc 'mẹ nuôi', 'chị nuôi' mà đã che dấu được các manh tâm, chỉ khi đạt thành quả mới lộ dã tâm giết các mẹ nuôi, chị nuôi, anh nuôi... rất táng tận lương tâm!
Rồi sự cách biệt Nam - Bắc 20 năm (1954 - 1975) cũng tạo được những khác biệt ghê gớm, khi Miền Nam vẫn giữ được truyền thống lâu đời về ngôn ngữ, tư tưởng, tình cảm, tâm lý... trong khi Miền Bắc bị Cộng sản đồng hóa nhiều bề, dần đưa đến chỗ bị Trung Cộng ràng buộc trói tay, rất khó thoát vòng nô lệ, nếu Người Việt trong và ngoài nước không sớm thức tỉnh, đồng lòng lo cứu quốc & phục quốc.
Cung cách xưng hô trên đã tôn xưng các vị tu hành rất cao, đứng trên cả cha mẹ sinh thành một cách thân thương kín đáo, khi không có những vai vế của bậc thấp dưới cha mẹ như chú, cậu, anh, chị, em... Ngay những người tu hành nhỏ tuổi cũng được tôn xưng là Chú Tiểu...
Khi đối thoại trực tiếp thì 'Bạch Thày', coi như bậc thầy...
Tưởng cũng nên biết với Đạo Mẫu của người Việt, thì các nhân vật chính yếu được coi thân tình và đúng mức hơn nữa, khi có vai vế dưới Cha Mẹ, chỉ được gọi là các 'Cô - Cậu', qua thành ngữ 'Đồng Cô - Bóng Cậu'.
Sự bản địa hóa tôn giáo tại Việt Nam, đã giúp các vị tu hành có được ý thức 'Tôn giáo và Quốc Gia & Dân Tộc & Gia Đình luôn đồng hành, có bổn phận phải hoàn thành trách nhiệm song song trong cả cuộc Sống Đạo và cuộc Sống Đời'; không có việc coi tu hành là cần phải xa lià khỏi Gia Đình & Dân Tộc & Quốc Gia, mà vong ân - bội nghiã.
Do vậy mà từ thời Đinh Lê Lý Trần... các vị cao tăng đã tham gia việc nước khi đất nước cần tới, chứ không vì tu đạo mà ích kỷ không ngó ngàng gì tới Quốc Gia & Dân Tộc, như các tu sĩ 'quốc doanh' trong nước thời XHCN.
Đời Trần, vua Trần Nhân Tôn tuy làm vua mà vẫn tu hành, để rồi khi quân Mông Cổ xâm lăng, đã 3 lần cầm quân đánh tan giặc, sau đó mới tiếp tục cuộc sống tu đạo ở núi Yên Tử - với ẩn ý tuy tu hành mà vẫn có thể theo dõi tình hình phiá Bắc, hầu đề phòng quân Mông Cổ quay trở lại.
Người bản địa hóa tôn giáo mạnh nhất trong lịch sử Tôn Giáo Việt Nam, là Đức Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ - vị Tổ sáng lập Phật Giáo Hòa Hảo, khi Ngài nêu cao Tứ Ân:
1/ Ân Tổ Tiên, Cha Mẹ
2/ Ân Đất Nước
3/ Ân Tam Bảo
4/ Ân Đồng bào và Nhân Loại - với người xuất gia tu hành là Ân Đàn Na Thí Chủ.
Khi đất nước rơi vào tay Cộng sản tàn ác, rất nhiều các vị tu sĩ của các tôn giáo đã biểu lộ tình cảm yêu nước & thương nòi, song song với việc vệ đạo, đứng ra đấu tranh đòi tự do, nhân quyền:
**Phật Giáo có các Hòa thượng Huyền Quang, Quảng Độ lãnh đạo các vị Tăng Ni, Phật Tử đấu tranh đòi tự do dân chủ, nhân quyền, rồi mới đến tự do tôn giáo.
Ngày 16-5-2009, Hòa thượng Quảng Độ khi gặp đại diện Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế của Hoa Kỳ đến thăm ngài nơi ngài đang bị Việt Cộng quản thúc ở Thanh Minh thiền viện, Sài Gòn, nhiều năm qua, ngài đã nói:
-'Tôi có thưa với Ủy ban rằng việc tôi đề cập đến vấn đề bauxite ở Tây Nguyên, lý do rất đơn giản vì Phật Giáo Việt Nam có thể khác với Phật Giáo các nước khác ở Á Châu, đặc biệt là cái vận mệnh của Phật Giáo Việt Nam nói chung, và của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất nói riêng, từ bao nhiêu năm nay nó vẫn gắn liền với sự thịnh suy của dân tộc Việt Nam, mà từ mấy ngàn năm nay nó vẫn như thế'.
**Thiên Chúa Giáo có các vị Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt, Linh mục Nguyễn Văn Lý, Linh mục Nguyễn Hữu Lễ... Đặc biệt ngài Nguyễn Hữu Lễ đã có câu nói rất đáng ghi vào sử sách: 'Trước khi là Linh mục, tôi là một người Việt Nam'.
**Các tôn giáo khác như Hòa Hảo, Cao Đài, Tin Lành cũng có rất nhiều các vị tham gia đấu tranh cho Quốc Gia & Dân tộc, mặc dù bị bạo quyền Cộng sản Việt Nam đàn áp, đánh đập, tù đầy không xét xử, rất man rợ!.
Lịch sử Việt Nam sẽ mãi mãi ghi công các vị tu sĩ biết quan tâm đến cả việc Đạo và việc Đời, nên sự bản địa hóa các tôn giáo đã giúp thăng hoa nhân cách của các vị tu sĩ lên hàng các nhà ái quốc anh hùng, được mọi người kính phục - hơn hẳn những tu sĩ 'quốc doanh' chỉ lo 'tu hành' rất bất nhẫn và ích kỷ (?!), không còn nghĩ gì đến sự khổ đau của Gia Đình & Cộng Đồng & Xã Hội & Dân tộc đã cưu mang nuôi nấng họ nên người.
Nhận Định
Một điều rất đáng buồn, là không chỉ trong Tôn giáo, mà trong Chính giới và Học giới, hầu hết đã vì mê say tôn giáo, đảng phái, học thuyết mình yêu thích... mà bị vong thân - lo việc nước mà không hề nghĩ đến việc phát huy truyền thống dân tộc; khiến đưa đẩy Quốc Gia & Dân Tộc dần dần đến chỗ bị lệ thuộc nước ngoài, từ chính trị, tôn giáo, kinh tế đến văn hóa ngay cả khi giành được độc lập, tự do!
Đây chính là thảm cảnh 'lo mà không biết nghĩ' vậy?!
Cuối Thế kỷ 20, một số vị có trình độ học vấn và địa vị cao của các tôn giáo đã ngả nghiêng theo bạo quyền Cộng sản Việt Nam, gia nhập các tổ chức tôn giáo quốc doanh, với ý nghĩ thiển cận khi cho rằng cần duy trì phát huy tôn giáo là chính, mà coi nhẹ sự khổ đau của dân tộc. Những nhà tu hành này dù cao đạo đến mấy, cũng vẫn trở thành có tội với Quốc Gia & Dân Tộc & Xã Hội & Gia Đình. Chức càng cao thì tội càng nhiều?
Những người này đã bị kiến thức hạn hẹp như con ngựa kéo xe bị che mắt, chỉ thấy được một chiều, làm cho mê muội khi không biết rằng Quốc Gia & Dân Tộc mới là Mẫu Số Chung mà mọi người có trách nhiệm phải bảo vệ đề cao; còn Tôn giáo, Đảng phái, Học thuyết chỉ là những Tử Số riêng biệt phụ thuộc, nhằm phục vụ Mẫu số chung mà thôi.
Cộng sản Việt Nam gian trá đã đánh đồng Đảng với Tổ Quốc, để rồi đàn áp, tàn sát những ai chống lại Đảng của chúng, bằng những đạo luật đồng hóa Đảng với Tổ Quốc - coi chống Đảng là phản Quốc.
Kinh khủng nhất khi những người Cộng sản Việt Nam vì lợi quyền tham ô, tha hồ tác quái bán nước hại dân, có chủ trương 'Thà mất Nước còn hơn mất Đảng', Công an Nhân dân thì nêu câu 'Còn Đảng mới Còn Mình' cực kỳ phản quốc!
Hậu quả ác hại của lối biện luận ngu xuẩn này gây ra, là đã khiến họ không ngần ngại dâng đất nước cho quan thầy Trung Cộng, đàn áp thô bạo bất cứ ai làm trái ý đồ xấu xa của họ, bán rẻ dân tộc cho ngoại bang qua các vụ xuất khẩu lao động, hạ giá nhân công trong nước khi làm việc với các doanh nghiệp nước ngoài để thu hút đầu tư, cho phép phụ nữ tha hồ đi lấy những người chồng nước ngoài già nua tật bệnh... để ăn hối lộ, thu ngoại tệ, mà không hề đề ra các biện pháp & giới hạn giúp đỡ chọn lọc; trong lúc ngay như Campuchia còn biết hạn chế tuổi tối đa 50, lợi tức hàng tháng tối thiểu 2.000 USD... của các nam nhân muốn cưới vợ người Campuchia.
Một khi nước mất, nhà tan, tôn giáo và các chính đảng cũng trầm luân theo, thất phu cũng hữu trách... như trường hợp Việt Nam Cộng Hòa vừa qua, không biết đến bao giờ mới có thể khôi phục?!
Quan niệm Việt về Trời - Đất - Thánh - Thần
Do từ lâu Người Việt đã có ý thức rất cao về Nhân Vị - Nhân Bản - Nhân Quyền, thăng hoa lên thành 'Nhân Hùng', ngay khi lập quốc qua 18 đời vua đầu tiên của Việt Nam, nên đã có nghệ thuật giáo dục & phát triển hoàn thiện Nhân Cách riêng biệt, hầu có thể Tự tin & Tự Trọng & Tự Cường từ tư tưởng đến hành động, xứng đáng với vai vế của mình trong thế Tam Tài Bình Đẳng giữa Thiên - Địa - Nhân.
Với Trời, tuy tôn trọng, nhưng không vì thế mà không phê phán những điều chưa đúng, bị cho rằng do Trời gây ra.
-Khi thấy Trời đúng thì khen ngợi là sáng suốt:
'Trời có mắt.
-Khi thấy Trời chưa đúng thì chê trách là đồ đui mù:
'Trời không có mắt.
-Nhận định Trời nhiều khi cũng như người:
'Trời làm một trận lăng nhăng,
'Ông hóa ra thằng, thằng hóa ra ông.
-Do biết tự đối phó thích ứng, nên có khi coi nhẹ cả Trời:
'Trời mưa thì mặc Trời mưa,
'Chồng tôi đi bừa đã có áo tơi,
'Chồng tôi đi chơi đã có nón đội,
'Chồng tôi đi hội đã có dù che.
Với các vị Thánh Thần, cũng có những suy nghĩ tương tự:
-'Trời cao, bể rộng bao la,
'Việc gì mà chẳng do ta mọi bề?
'Trong việc nhà, ngoài thì việc nước
'Giữ làm sao sau trước vẹn tuyền,
'Lọ là cầu Phật, cầu Tiên?
Một câu chuyện khá thú vị giữa Thần và Người, trở thành sự tích được dân gian Việt truyền tụng như sau:
'Một cậu học trò nhà ở gần một nơi thờ Thần Thành Hoàng, một bữa cậu đang ngồi học thì thấy một người hàng xóm lấy trộm quần áo đang phơi của nhà bên cạnh. Hôm sau hai bên hàng xóm của cậu học trò đưa nhau ra trước Thần Thành Hoàng thề sống thề chết, nhưng kết quả mấy ngày sau chẳng ai bị hề hấn gì.
'Cậu học trò tự nhủ thầm:
'-Thần gì mà không có mắt, không thấy được cả việc trộm cắp ngay trước cửa đền thờ!
'Tới đêm, cậu học trò nằm ngủ mơ thấy vị Thần Thành Hoàng tới hỏi rằng:
'-Này cậu học trò, sau này đỗ đạt làm quan án sát, liệu cậu có thể chỉ vì vài cái quần cái áo, mà giết một mạng người hay không?
Do vậy mà lối thờ cúng Thánh Thần của Người Việt cổ truyền tuy thể hiện sự tôn kính 'Địa linh & Nhân kiệt', nhưng không hề mang sắc thái quá sùng bái đến độ mất cả tư duy và nhân cách, rồi bị lệ thuộc theo kiểu yếu hèn.
Cụ thể từ xa xưa, các hình vẽ trên Trống Đồng cho thấy Người Việt Cổ sinh hoạt vui tươi dưới ánh sáng Mặt Trời, không hề có hình ảnh qùy lậy. Đạo Nội thờ Thánh Mẫu của Người Việt có nghi lễ lên đồng múa hát trước ban Thờ Mẫu...
Người Việt châm biếm cử chỉ qùy lậy, như một hành vi tình dục:
'Xin qùy hai gối, chống hai tay.
Và lễ vật thờ cúng cũng rất đơn giản:
'Trời Đất hương hoa,
'Người ta cơm rượu.
Nhận Định
Trời - Đất - Thánh - Thần được Người Việt từ xa xưa nhân cách hóa một cách thân thương gần gũi, coi như là thế lực hỗ tương có trách nhiệm giúp đỡ phát huy cuộc sống nhân sinh theo chiều hướng thăng hoa - chứ không coi đó là những thế lực tối cao có mọi quyền hành sinh sát; nên đòi hỏi phải sáng suốt mới được kính trọng, thờ phượng.
Vì nếu Trời - Đất - Thánh - Thần sáng suốt phân minh, thì tại sao lại có thể để cho những kẻ gian ác ghê gớm nhất tồn tại, tác yêu tác quái, hưởng mọi sự giàu sang phú qúy, nhởn nhơ trước mắt mọi người?
Do vậy qua một số cổ tích, sự tích, ca dao, tục ngữ, người Việt có nhân sinh quan đòi hỏi 'Quả Báo Nhỡn Tiền', tức là sự ác giả ác báo phải xảy ra ngay trong kiếp sống này mới đúng đắn, coi chuyện kiếp sau bị báo oán như một số tôn giáo đưa ra để giải thích... là không thích hợp với đạo lý của nhân gian, vì không hữu hiệu trong việc giáo dục nhân luân:
-'Cây xanh thì lá cũng xanh,
'Cha mẹ hiền lành để đức cho con.
-'Trời quả báo ăn cháo gẫy răng,
'Ăn cơm gẫy đũa, xỉa răng gẫy chày.
Phân biệt giữa Thánh Thần và Tu sĩ
Người Việt có ý thức cao về việc thờ phượng, nên phân biệt khoảng rõ cách giữa Thánh Thần và Tu sĩ, sớm nhận ra không ít các tu sĩ chưa đủ đạo hạnh, làm mất uy tín của Thánh Thần. Do vậy mà Người Việt đã loại Tu sĩ ra khỏi tín ngưỡng của mình, hầu có thể trực tiếp giao tiếp với Thánh Thần.
Cụ thể các Đình Thờ Thần Thành Hoàng, Đền Thờ Mẫu... chỉ có một Ông Từ coi sóc quét dọn nơi thờ phượng, hưởng lương do dân làng đóng góp, chứ không hề có quyền hành lễ, giảng giải đạo lý.
Và ca dao nếu có những bài phê phán tôn giáo, là chỉ phê phán tư cách riêng tư của tu sĩ, chứ không hề động chạm đến các vị Thánh Thần bên trên.
Nói khác đi, Người Việt không hề đồng hóa tu sĩ với thánh thần, cũng không thần thánh hóa các tu sĩ, dù ở bất cứ địa vị nào, nên không bị lợi dụng đưa đẩy đến chỗ mê muội vì tôn giáo:
-'Tụng kinh dạ những rì rầm,
'Gái tơ, vãi trẻ, mắt thầm bôn ba.
-'Sư đương tụng niệm Nam Mô,
'Thấy cô sách giỏ mò cua bên chùa.
'Lòng sư luống những thẫn thờ,
'Bỏ cả kinh kệ, tìm cô hỏi chào.
'Ai ngờ cô đi đằng nào,
'Tay cầm tràng hạt ra vào băn khoăn.
-'Ba cô đội gạo lên chùa,
'Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư.
'Sư về, sư ốm tương tư.
'Ốm lăn, ốm lóc cho sư trọc đầu.
'Ai làm cho dạ sư sầu?
'Cho ruột sư héo như bầu đứt dây.
-'Chị là con gái nhà giàu,
'Ăn mặc tốt đẹp vào chầu Tòa Sen.
'Em là còn gái nhà hèn,
'Ăn mặc rách rưới, mon men ngoài hè.
-'Chập chập thôi lại cheng cheng,
'Con gà trống lớn để riêng cho thầy.
'Đơm xôi, thì đơm cho đầy,
'Đơm mà vơi điã thì thầy không ưa.
Cho nên đã nảy sinh quan điểm rất cao về tu tập:
-'Tu đâu cho bằng tu nhà?
'Thờ Cha - Kính Mẹ mới là chân tu.
-'Thứ nhất là tu tại gia,
'Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa.
Nhận Định
Tín ngưỡng nguyên thủy của Người Việt mang tính Văn hóa hơn là tính Tôn giáo, tạo được tinh thần 'Anh Hùng: Tự Tin & Tự trọng & Tự Cường và có Trách Nhiệm với Gia Đình & Xã Hội & Dân Tộc & Quốc Gia' - phát triển Nhân Cách xứng đáng với địa vị bình đẳng trong thế Tam Tài 'Thiên - Địa - Nhân'.
Tín ngưỡng thờ 'Địa Linh - Nhân Kiệt' của Người Việt thể hiện sự Bái Thiên - Bái Địa - Bái Nhân mang tính văn hóa đồng đẳng, giúp thăng hoa Nhân Vị, đề cao Nhân bản, phát huy Nhân Quyền, tôn kính Anh Hùng để bắt chước làm theo chứ không sùng bái... nên không khiến con người trở thành hèn yếu, mất tư cách, phải qụy lụy trước các thế lực siêu hình cũng như hữu hình, dù là Bái Thiên - Bái Địa - Bái Nhân.
Điều này đã giúp Người Việt bấy nay duy trì được tinh thần truyền thống tự chủ cao đẹp của dân tộc, dù bị nhiều tôn giáo ngoại lai xâm nhập, tìm cách khống chế, tha hóa...
Do vậy nhà văn hóa Toan Ánh đã sai lầm tai hại, khi cho rằng Việt Nam không có Tôn Giáo riêng biệt, với lý do Đạo Nội không có Tu sĩ và Kinh điển trong việc thờ phượng. Ông Toan Ánh chưa thấy được rằng Người Việt từ xưa đã sớm nhận ra không ít Kinh điển và Tu sĩ không còn phản ảnh được sự tinh hoa chân chính nguyên thủy của tôn giáo, nên mới loại bỏ Tu sĩ và Kinh điển, trực tiếp giao tiếp với thế giới siêu hình qua các bài khấn, bài sớ... thay đổi linh động tùy theo từng không gian - thời gian - nhu cầu - đối tượng?!
Quan niệm về Âm Dương
Sách Lĩnh Nam Trích Quái mở đầu bằng 'Truyện Hồng Bàng Thị', về sự tích Âu Cơ và Lạc Long Quân, có đoạn viết:
'Long Quân nói:
'-Ta là nòi Rồng, đứng đầu thủy tộc. Nàng là giống Tiên, sống ở trên đất, tuy khí Âm Dương hợp lại mà sinh ra con, nhưng Thủy - Hỏa tương khắc, dòng giống bất đồng, khó ở lâu với nhau được, nay phải chia ly. Ta đem 50 con về Thủy phủ chia trị các xứ, 50 con theo Nàng về trên đất, chia nước mà trị. Lên núi, xuống biển, hữu sự báo cho nhau biết, đừng quên nhau'.
Lĩnh Nam Trích Quái viết bằng chữ Hán, theo Lê Quí Đôn trong 'Kiến Văn Tiểu Lục' thì do Trần Thế Pháp viết, sau được Vũ Quỳnh đậu tiến sĩ năm 1478 - niên hiệu Hồng Đức thứ 9 viết bài Tự, và Kiều Phú đậu tiến sĩ năm 1475 - niên hiệu Hồng Đức thứ 6, chỉnh sửa viết bài Hậu Tự.
Từ các chi tiết kể trên, chúng ta thấy:
1/ Truyện lúc đầu do các Nho sĩ viết bằng Hán tự, đã chịu ảnh hưởng Hán học, mà đưa vào lý do Âm Dương kết hợp nhưng Thủy Hỏa tương khắc, khiến phải chia tay. Điều này là do quan niệm Dịch học của Lão Tử và Kinh Dịch của Khổng Tử, được tác giả đặt vào miệng Lạc Long Quân, trong khi Lạc Long Quân sinh trước Khổng Lão gần 2.000 năm, lúc đó Khổng Lão chưa sinh ra, thì làm sao Lạc Long Quân có thể lấy lý lẽ của Dịch Học ra nói?
2/ Lạc Long Quân bảo với Âu Cơ là cần chia nhau đem con đi dựng nước, khi nào 'hữu sự báo cho nhau biết, đừng quên nhau', thì không hề có chuyện lìa bỏ nhau, như nhiều người hiểu sai sau này; mà chỉ vì Lạc Long Quân là người hiểu lẽ 'lời nói cần đi đôi với việc làm' - sau này các Nho gia biện luận thành 'Tri Hành hợp nhất', nên dấn thân cùng các con xuống vùng biển chung sống để cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng lo toan việc dựng nước; hy sinh hạnh phúc bản thân.
Đây chính là việc thực hiện nhân sinh quan 'đồng', theo chiều hướng hành động 'chung + cùng'.
Như thế quan niệm Âm Dương, Thủy Hỏa tương khắc là của Trung Hoa, do các Nho sĩ quá hâm mộ Hán học mà gán bậy vào việc chia tay cao cả của Lạc Long Quân - Âu Cơ, làm mất đi sự cao đẹp của lý do vì việc nước - hy sinh việc nhà, phải tạm chia tay đi lo đại sự.
Vì từ xưa, người phụ nữ Việt dù chưa biết đạo Tam Tòng là gì, vẫn vì tình nghiã một lòng giúp chồng nuôi con, để rồi được chồng con tôn thờ đền đáp:
'Công Cha như núi Thái Sơn,
'Nghiã Mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
'Một lòng thờ Mẹ, kính Cha,
'Cho tròn chữ Hiếu mơi là đạo con.
Muốn được chồng con biết ơn sâu vì nghiã nặng, người phụ nữ Việt khác với người phụ nữ Trung Hoa và các nước trên thế giới ở điểm 'đảm đang', khi lấy chồng là nhận trách nhiệm phát huy nền tảng gia đình, đòi hỏi sự can đảm và sáng suốt, không tuân theo chồng con một cách ngu dại?
Phụ nữ Việt luôn biết cách từ nhẹ nhàng đến quyết liệt, khuyên can & hỗ trợ chồng con thăng tiến.
Nếu ở Trung Hoa, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, thì ở Việt Nam, người phụ nữ nơi thôn quê khi chưa bị ảnh hưởng Nho Giáo, đã tìm cách chọn lựa chồng qua các công việc đồng áng:
'Lấy chồng cho đáng tấm chồng,
'Bõ công trang điểm má hồng, môi son'.
Một khi đã chọn lựa được người chồng theo ý muốn, lúc đó họ sẽ hết lòng vì chồng con, đến mức khó có thể tưởng tượng nổi. Cụ thể như khi chồng hư hỏng, họ vẫn bấm bụng chuyển từ thương chồng qua thương con, để có thể tiếp tục hy sinh.
***
Quan niệm 'Âm - Dương' của Trung Quốc bắt nguồn và phát triển theo Thái Cực sinh Lưỡng Nghi - Tứ Tượng - Bát Quái, thành hai phần tương phản nhau.
Quan niệm 'Âm & Dương' của Việt Nam bắt nguồn và phát triển từ Hỗn Mang sinh Âm & Dương, phát triển thành Tam Tài, Ngũ Hành, thành các phần tương sinh với nhau.
Âm & Dương theo quan niệm của người Việt xa xưa là 2 phái tính tuy khác nhau, nhưng luôn kết hợp để cùng biến hóa sinh thành.
Như Mặt Trăng và Mặt Trời ngày đêm hiện diện, đem ánh sáng cho muôn loài nảy nở, đơm hoa kết trái - Như Nam và Nữ chung sống, sinh con đẻ cái, phát triển giống nòi, duy trì mãi mãi thế Tam tài giữa Thiên - Địa - Nhân.
Cho nên sự kết hợp Âm & Dương hòa, Thủy & Hỏa tương giao, được người bình dân mô tả đầy hoan lạc, qua câu đố về Cái Điếu hút thuốc lào:
'Lưng tròn vành vạnh, đít bảnh bao,
'Mân mân, mó mó, đút ngay vào.
'Thủy & Hỏa tương giao, sôi sùng sục,
'Âm & Dương nhị khí sướng làm sao.
Từ Quan điểm Âm + Dương = Hòa khiến Thủy Hỏa Tương Giao, không hề tương đố, như Nam + Nữ = sinh con, thể hiện trong Dương Có Âm, trong Âm có Dương, trong Nam có Nữ, trong Nữ có Nam, thăng hoa thành quan niệm lạc quan 'Trong Họa có Phúc' - 'Trong Phúc có họa', để ai nấy dù gặp lúc không may, vẫn lạc quan tin tưởng như Nguyễn Công Trứ tới 40 tuổi còn hàn vi, làm thơ:
'Số khá, Bĩ rồi lại Thái,
'Cơ thường Đông hết, hẳn sang Xuân.
Còn Tục ngữ, Ca dao Việt luôn nhắc nhở mọi người tin vào tương lai:
-'Chẳng ai giầu ba họ,
'Chẳng ai khó ba đời.
-'Chim sa, cá nhảy chớ mừng,
'Nhện sa, xà đón, xin đừng có lo.
Nhận Định
Bấy nay, sách vở do giới học thức Việt Nam (chưa thành được Trí Thức, vì cái Học chưa đánh thức được cái Trí - khi chỉ nhai lại những gì đã học), dựa theo các giáo điều Tam Giáo biên soạn, nên hầu như mắc phải lề thói 'tầm chương - trích cú' theo Trung Quốc, cứ 'chuyện cũ sao y - bổn cũ soạn lại', không hề có tinh thần hoài nghi, lối nghĩ theo luận lý học của Triết học Tây phương bao gồm Tiền đề - Phản đề - Hợp đề, nên mới khiến hàng ngàn năm qua giới học thức bị vong thân, đưa đẩy truyền thống Việt ngày càng mai một, tư tưởng lún sâu dần dần vào sự bị tha hóa, nô lệ hết văn hóa Đông phương đến văn hóa Tây phương, rồi Cộng sản... bị ảnh hưởng tới mức coi đó là những khuôn vàng thước ngọc, vạn thế sư biểu, kinh điển phải noi theo, không có được các phản biện cần thiết để phát huy theo chiều hướng thăng hoa tốt đẹp.
Chính sự nô lệ văn chương tư tưởng do việc học từ nhà trường, rồi đem thi hành ngoài đời để kiếm bổng lộc vinh thân, đã khiến cho giới học thức Việt Nam chẳng thể trở thành các nhà trí thức biết xét suy sâu xa trước sau, mà không còn ngó ngàng gì đến nền văn hóa quốc hồn, quốc túy rất thâm sâu của Việt Nam, hiện diện ngay từ khi lập quốc.
Thực tế cho thấy, nếu còn ở trong nước mà khơi gợi về cội nguồn, vạch rõ vấn đề tha hóa mất gốc của các tôn giáo, đảng phái, sách giao khoa... ắt sẽ bị các thế lực văn hóa tư tưởng ngoại lai đang thống trị đàn áp ngay. Cụ thể như ngày nay dưới chế độ Cộng sản; và vào cuối thập niên 1960 dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa, chúng tôi phải hủy cả 1 số báo Phát triển Văn hóa đã in, chỉ vì dám viết là Bụt chưa đản sinh thì làm sao có thể báo mộng dạy Lang Liêu làm bánh chưng?! Và Bụt nào lại dạy giết heo làm nhân bánh?! Lý do ông Mai Thọ Truyền lúc đó làm Quốc vụ khanh Văn Hóa, ra lệnh phủ Quốc vụ khanh trợ cấp tiền làm báo cho tờ Phát triển Văn hóa và một số hoạt động văn hóa khác, nhưng bắt phải in ở nhà in của Phật Giáo là nhà in của Đại học Vạn Hạnh gần chợ Trương Minh Giảng, để rồi một tín đồ sửa bản in đọc thấy, đã trình lên các cấp trên tuy có học thức cao, vẫn u mê cấm cản một cách vô ý thức.
Nhận Định Chung về Vũ Trụ Quan Việt Nam
Vì là dòng giõi Tiên + Rồng, sinh ra nòi giống Hùng Vương, nên Vũ Trụ Quan của Người Việt từ xa xưa luôn quan niệm phải tự tin & tự trọng & tự cường, cố gắng phát triển tài đức thành các bậc anh hùng & liệt nữ giúp Quốc Gia & Dân Tộc, hầu có thể được dân chúng qúy trọng, thờ phượng - nhà vua phong thần - Tổ Quốc ghi công, tương xứng địa vị 'Hùng' cao cả, trong quan hệ Tam tài 'Thiên - Địa - Hùng Nhân'.
Trong khi Phật Giáo và Khổng Giáo dừng lại ở chữ Dũng, như Bi - Trí - Dũng, Nhân - Trí - Dũng?
Trung Quốc chỉ đề cao chữ Dũng, cao nhất là 'Cái Dũng của Thánh Nhân' (tên một cuốn sách nói về sự dũng cảm chế ngự thất tình), còn bình thường chỉ là các Dũng sĩ như Kinh Kha, Cao Tiệm Ly, các Dũng tướng như Ngũ Hổ Tướng của Lưu Bị... vì các nhân vật này chỉ trung thành phục vụ cho một nhân vật, không phục vụ cho Quốc Gia & Dân Tộc.
Đó là lý do để Tào Tháo nói với Lưu Bị rằng: 'Trong thiên hạ, chỉ có tôi với ông là bậc anh hùng' - nhưng xét kỹ thấy cả hai đều là 'gian hùng', vì chỉ mưu mô lo tiểu sự cho mình, mà không nghĩ tới đại sự cho Quốc Gia & Dân Tộc?!
Do vậy Người Việt không Bái Thiên - Bái Địa theo cách thông thường của các tôn giáo, mà Bái Nhân Hùng một cách đầy tình lý, qua tín ngưỡng thờ 'Địa Linh - Nhân Kiệt'; nghiã là chỉ đề cao thờ phượng các bậc anh hùng, hào kiệt, liệt nữ có công với dân với nước qua các nơi chốn sinh thành, hoặc diễn ra chiến công cụ thể, thay vì chỉ là những lý thuyết 'bái vọng' xa xôi cách biệt mơ hồ, dễ bị giới tu sĩ lợi dụng làm sai lạc chính kiến, đưa đến thảm cảnh vong thân, vong bản, vong quốc?
Các địa phương giúp các bậc anh hùng liệt nữ làm nên đại sự, cũng được Người Việt coi là đất linh thiêng, nên thường được lập đền thờ tưởng nhớ đến cả người và nơi chốn làm nên các chiến công vệ quốc hiển hách, trở thành danh lam thắng cảnh được tôn tạo & hành hương tưởng nhớ trong các hèm và lễ kỷ niệm hàng năm.
Đây chính là một phương pháp giáo dục tinh thần ái quốc sâu rộng tràn lan khắp nơi, đồng thời bảo tồn không gian lịch sử lâu đời của người Việt - cũng là một cách thần kỳ bảo vệ địa thế quân sự và môi trường tuyệt vời.
Các sự kiện trên cho thấy tín ngưỡng thờ Điạ Linh & Nhân Kiệt của Người Việt mang tính Văn Hoá Giáo Dục gần gũi thân thương tốt đẹp, hơn là tính Tôn Giáo thường mang tính đe dọa gây sợ hãi cách biệt; nên mới có thể duy trì và phát huy tinh thần truyền thống của một dân tộc bất khuất, không chịu luồn cúi thấp hèn trước bất cứ thế lực vô hình hay hữu hình nào.
Đó chính là nguyên nhân đã giúp dân tộc Việt trải qua bao thăng trầm, từng nhiều phen bị các cường quốc đông tây xâm lăng, thống trị, nhưng cuối cùng vẫn có thể vùng lên, giành lại độc lập tự chủ cho Quốc Gia, giữ vững bản sắc Dân Tộc.
Trong tình huống thù trong giặc ngoài giày xéo quê hương, gây chia rẽ suy đồi do Cộng sản Việt Nam vong bản bán nước buôn dân gây ra hiện nay, việc phục hưng tinh thần truyền thống Anh Hùng của cội nguồn dân tộc, qua các tinh hoa văn hóa tư tưởng ẩn tàng trong kho tàng Ca dao, Tục ngữ và Cổ tích - có giá trị hơn cả Kinh Thư & Kinh Thi của Trung Quốc - rất cần phục hồi & khai thác khẩn thiết, hầu có thể giúp đoàn kết Dân Tộc, nêu cao chính nghiã Quốc Gia, quên mọi tỵ hiềm nhỏ nhen do khác biệt tôn giáo, chính trị, giáo dục, xã hội, sắc tộc... bấy nay gây ra; hầu chung lưng đấu cật, mới mong sớm quang phục quê hương, phát triển đất nước theo chiều hướng thăng hoa tốt đẹp nhất.
Một khi nền văn hóa Việt Nam được giới trí thức - vì giới học thức thường bị sở học của mình hạn chế tầm nhìn trở nên co cụm, mà có thành kiến hẹp hòi khó chấp nhận các ý kiến khác - quan tâm nghiên cứu, phát huy... đúng mức, ảnh hưởng sẽ không chỉ hạn hẹp trong một quốc gia, dân tộc. Vì Văn hóa Việt Nam mang tính nhân bản khai phóng cực kỳ công bằng & bác ái, nhưng lại rất thiết tha với gia đình, xã hội, Tổ quốc.
Việc Người Việt nay phải ly hương do thế sự, sinh sống ở nhiều nơi trên thế giới, chính là cơ hội để hoằng dương Triết lý Sống Hùng của Truyền Thống Việt Nam, sán lạn hơn hẳn các Triết lý Đông Tây; tạo sự ngưỡng mộ qúy mến đối với một nền Văn hiến lâu đời, vượt ra ngoài phạm vi Quốc Gia & Dân Tộc, hơn hẳn một số tôn giáo và triết học Đông Tây?
Copyright © 2024 Giao Su XKZ - All Rights Reserved.
Powered by GoDaddy
We use cookies to analyze website traffic and optimize your website experience. By accepting our use of cookies, your data will be aggregated with all other user data.