Muốn thực hiện hữu hiệu vấn đề Quang Phục Quê Hương, Giải Phóng Dân Tộc, Canh Tân Quốc Gia... chúng ta cần tìm hiểu, nghiên cứu tình hình Người Việt cả ở trong và ngoài nước, từ 1975 tới nay - tức là sau khi cả nước bị Cộng sản Việt Nam 'nhất thống cai trị' theo những chủ trương đường lối vong bản vô luân sắt máu, qua bản hiến pháp và những luật lệ vô luân, mà họ luôn vin vào đó để đàn áp, bóc lột dân chúng, bao che cho các hành vi tham tàn vô liêm sỉ của hầu hết các đảng viên lớn nhỏ, không còn chút nhân tính nào!
***
Đầu tiên, nên tự xét mình để ''Biết Mình - Biết Người'':
Có thể nói là trước 1975, bộ Giáo dục và bộ Thông tin & Tuyên truyền của Miền Nam Việt Nam, dưới 2 chế độ Đệ I và Đệ II Cộng Hòa, đã không quan tâm đúng mức hầu có thể phát triển khả năng tuyên truyền & giáo dục & đào luyện mọi người, các hiểu biết quan trọng về lý thuyết không tưởng & sự bành trướng tai quái của chế độ Cộng sản trên thế giới nói chung, tại Việt Nam nói riêng.
Là người từng trực tiếp giảng dạy các môn Văn, Triết, Sử, Địa, Công dân giáo dục tại các trường công tư Miền Nam từ năm 1958 đến 1975, chúng tôi thấy chỉ tới lớp 11 mới có một bài duy nhất giảng dạy về Chủ thuyết Kinh Tế Cộng Sản do Karl Marx chủ trương, theo sách Công dân lớp 11 của Giáo sư Thạc sĩ Vũ Quốc Thúc biên soạn.
Chúng tôi đã gặp khó khăn khi giảng dạy về quan điểm kinh tế học do Karl Marx đề ra, vì sách không hề có phần phản biện. Điều này khiến người bạn cùng dạy song song với chúng tôi ở Trung học Cao Lãnh, Kiến Phong, hồi đầu thập niên 1960, bị an ninh bên tòa tỉnh mời qua đặt câu hỏi, là tại sao tuyên truyền cho chủ trương kinh tế của Cộng sản?!
Riêng chúng tôi không bị 'mời' là nhờ khi giảng dạy, đã tự nghiên cứu để có thêm phần phản biện, vạch ra sự ngụy biện, sai lầm và lỗi thời của Karl Marx.
Cụ thể như quan niệm của Marx cho rằng muốn phát triển tốt, cần theo quá trình hủy thể của cây lúa (thân cây lúa sinh hạt lúa - sau đó thân cây lúa phải hủy thể thành bùn làm phân bón cho hạt lúa, hạt lúa mới có môi trường tốt nảy mầm...).
Chúng tôi đã phản biện khi giảng dạy, là thí dụ minh chứng của Marx chỉ đúng với loại cây thân rạ cá biệt thiểu số như cây lúa, còn tất cả các loại cây thân mộc phổ biến như soài, mãng cầu, dừa, cam, quít, mít, táo, bưởi, nhãn... hàng năm đơm hoa kết trái tốt tươi, đâu có cần phải hủy thể như cây lúa?!
Và chủ trương 'làm theo năng lực - hưởng theo nhu cầu' của Marx, thay vì 'hưởng theo năng lực' kiểu tư bản, khi thể hiện trong thực tế đã khiến người ta ỷ lại, làm cho các nền kinh tế Liên Xô, Trung Cộng và Đông Âu suy sụp ra sao?! Do đây chỉ là aỏ tưởng vì quá thánh thiện , không thích hợp với tâm lý hầu hết mọi người khi ai nấy thường ích kỷ hơn là vị tha, nên lúc áp dụng vào đời sống đã thất bại não nề, chỉ khiến cho thành phần cầm quyền thiếu tư cách lợi dụng thao túng bóc lột, tham ô!!!
Rồi trong quân ngũ, lúc được cử cầm đầu một phái đoàn Tâm lý chiến trong chiến dịch Diên Hồng hồi cuối thập niên 1960, đến hoạt động ở tỉnh Phước Long. Tôi hướng dẫn 4 sĩ quan mới tốt nghiệp trường Chiến tranh Chính trị Đà Lạt khóa 1 và 16 sĩ quan vừa tốt nghiệp trường Võ khoa Thủ Đức, tất cả sắp nhận công tác Tâm lý chiến chủ yếu tại một số quân binh chủng và địa phương, chia ra 4 toán hoạt động ở 4 quận của tỉnh.
Trong suốt mấy tháng hoạt động chung, tôi nhận thấy các sĩ quan tốt nghiệp trường Chiến tranh Chính trị và Võ khoa Thủ Đức sắp đảm trách công tác tâm lý chiến, mà chúng tôi có hân hạnh hướng dẫn làm công tác chiến tranh chính trị trong chiến dịch Diên Hồng, đã không thể tự quan sát cuộc sống xã hội xung quanh, nhìn ra các vấn đề tâm lý chiến nóng bỏng có thể tuyên truyền, đang xảy ra tại địa phương, tự viết được một bài ngắn tố cáo, như việc Cộng sản giật mìn xe đò giết hại dân lành để lập công vào những dịp lễ lớn của chúng, rất vô luân... phổ biến trên loa phát thanh của tòa tỉnh và các quận hàng ngày, mà chỉ đọc một cách thiếu diễn cảm những bài do trên đưa xuống, hoặc do tôi viết.
(Vào thời điểm này, chúng tôi muốn dùng danh từ 'Cộng sản' mà không dùng 'Cộng sản Việt Nam', vì Bắc Việt chỉ là tay sai - được Cộng sản quốc tế chỉ đạo và hậu thuẫn mạnh mẽ trong cuộc chiến xâm lăng Miền Nam Việt Nam).
Đáng buồn nhất là tỉnh Phước Long vào thời điểm đó đã bị Cộng sản chiếm cứ bao vây nhiều vùng quanh tỉnh lỵ và quận lỵ, nhất là các đồn lẻ loi nơi xa gần biên giới Lào, Miên. Điều này khiến các sĩ quan mới ra trường từ chối nhiệm vụ đi tới một số tiền đồn nói chuyện theo xe phát lương của tỉnh, vì thấy quá nguy hiểm khi đường đi luôn bị đắp mô, gài mìn, bắn sẻ... không thực hiện trách nhiệm phải tới hết mọi tiền đồn phổ biến thông tin của chiến dịch. Thấy vậy tôi phải đi thay thế, trong khi trách nhiệm của tôi là chỉ ở trung ương tỉnh điều hành, viết báo cáo.
Chính vị tỉnh trưởng Phước Long lúc đó thấy việc tôi không chỉ có khả năng viết và nói, mà còn thay cấp dưới đi tới mấy nơi nguy hiểm... đã mời sang tòa tỉnh ngợi khen, đề nghị về Ban chỉ huy Chiến dịch Diên Hồng làm giấy khen riêng cho tôi.
Câu chuyện nhỏ nhoi nhưng cho thấy việc huấn luyện chiến tranh chính trị của VNCH, đã phần nào không chú ý đào tạo về dũng khí trong chiến tranh của người thực hiện công tác chính trị; biến binh chủng này thành một an toàn khu - nhưng sau 1975 lại bị Cộng sản xử lý nặng nề nhất, vì bị đánh giá là quan trọng nhất so với quân đội Cộng sản?!
Và việc huấn luyện về chính trị cũng thiếu hữu hiệu trong các chương trình giáo dục & đào tạo kiến thức và văn hóa giúp phát triển tư duy, và thực hành khi dấn thân?
Phải chăng vì vậy mà cho đến lúc thất bại chạy được ra hải ngoại, chúng tôi thấy lẽ ra các sĩ quan Giảng dạy và Tốt nghiệp trường Chiến tranh Chính trị phải là lớp người hàng đầu tích cực nhất, tái hợp thực hiện tiếp vai trò đấu tranh tư tưởng dang dở của mình trong giai đoạn phục quốc, tối thiểu qua việc kết hợp viết bài, thành lập hoặc tham gia các cơ quan truyền thông... nhưng hầu như thấy rất ít ai xuất đầu lộ diện nổi bật, tạo nên khí thế cao trào cần thiết sau binh lửa của binh chủng không bị tước phương tiện chiến đấu sau chiến tranh, gây được tiếng thơm cho binh chủng của mình?
Vì khác hẳn với các binh chủng võ trang, khi buông súng là hết phương tiện hoạt động, ngành Tâm Lý Chiến vẫn có thể tiếp tục hoạt động trong môi trường mới, và rất cần hành động này sau cuộc chiến - nhất là khi Cộng sản Việt Nam ngày càng chú trọng đến việc tuyên truyền xuyên tạc bôi bẩn chế độ Việt Nam Cộng Hòa, mồi chài lôi kéo những người nhẹ dạ nghe theo họ?
Rồi khi tham gia soạn thảo Chương trình Quốc văn lớp 12 đầu tiên của Miền Nam hồi đầu thập niên 1970, tôi và nhà văn Thế Uyên trong lần họp đầu tiên đưa ra đề nghị cần giảng dạy về văn học Cộng sản Miền Bắc, qua các tài liệu trong cuốn 'Trăm hoa đua nở trên đất bắc' và 'Từ chế độ Thực dân đến Cộng sản' của Hoàng Văn Chí, vạch ra nhiều điều tệ hại của Cộng sản Việt Nam đã và đang thực hiện ở Miền Bắc... lập tức bị đại đa số gạt đi, với lý do e ngại bị phản tuyên truyền?
Điều này đã giúp Cộng sản dễ dàng rất nhiều khi phổ biến giảng dạy thơ văn Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Xuân Diệu... lúc chiếm Miền Nam sau năm 1975... mà không hề bị học sinh Miền Nam bịt mũi cười thầm về những bài ca ngợi lãnh tụ rất lố lăng của bọn họ, như thơ của Tố Hữu:
'Sít ta lin! Sít ta lin!
'Hỡi ôi! Ông chết đất trời biết chăng?
'Thương cha, thương mẹ, thương chồng,
'Thương mình thương một, thương ông thương mười!
...
Không ít giới trẻ từng tin theo Cộng sản, sau năm 1975 tâm sự với chúng tôi, là chỉ sau khi truyền tay đọc lén quyển Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc xuất bản ngay từ hồi 1955 ở Miền Nam, mới hiểu Việt Cộng, và hoảng sợ khi thấy những gì Hoàng Văn Chí viết nay tái diễn, thì đã quá muộn màng!
***
Vài mẩu chuyện tự sự kể trên cho thấy cơ cấu đấu tranh chính trị & chương trình giáo dục đào tạo ở Miền Nam sau 1954, đã mắc khiếm khuyết rất lớn khi không giúp học sinh và các thành phần Quân Cán Chính những hiểu biết cơ bản về đấu tranh chính trị khi phải đối phó với Cộng sản; phải chịu ngay các hậu quả nhỡn tiền, là giới trẻ do thiếu ý thức về Cộng sản trong giáo dục ở nhà trường, nên mới dễ bị bọn nằm vùng xúi bẩy biểu tình, theo chúng gây nhiều khó khăn cho nhà cầm quyền Miền Nam như thế nào, đưa đến thảm bại nhiều mặt ra sao, ai nấy nay đều đã thấy hậu quả nhỡn tiền?!
Vậy mà tới nay ở hải ngoại, các lớp dạy tiếng Việt, các tổ chức Cộng đồng, các tổ chức đấu tranh chính trị, các cơ quan truyền thông, các buổi sinh hoạt tập thể... vẫn chỉ chú trọng dạy chữ Việt, đấu tranh như cũ... chưa đặt nặng vấn đề giáo dục văn hóa tư tưởng. Thậm chí hầu hết các báo in ít khi có bài quan điểm, các báo điện tử trên internet, bấy nay luôn kèm câu viết có nội dung 'tác giả trách nhiệm về các bài đăng tải'???!!!
**
Có thể nói chỉ sau vụ Cộng sản thảm sát hàng ngàn đồng bào hồi Tết Mậu Thân, lúc họ chiếm đóng ở Huế ít ngày đã bắn giết tàn sát chôn sống nhiều người, mới khiến dân chúng Miền Nam phần nào thức tỉnh, để rồi hoảng sợ bỏ chạy khi Việt Cộng tiến chiếm, gây thảm cảnh Đại Lộ Kinh Hoàng ở Miền Trung hồi năm 1975, rồi thì các cuộc tháo chạy và vượt biên khắp Bắc Nam Trung sau 1975.
Nếu được giáo dục và tuyên truyền cho ai nấy hiểu rõ bước đường cùng này từ trước như Trần Hưng Đạo với bài Hịch Tướng Sĩ, có lẽ đa số đã tham gia chiến đấu bảo vệ chế độ tích cực hơn nhiều lần, thay vì ỷ lại vào Mỹ và nhà cầm quyền yếu kém do Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu điều hành theo bè phái đảng Dân Chủ, trù dập các đảng phái khác, để rồi phải chấp nhận bao bi thảm khi chế độ bị sụp đổ, kéo theo dân tộc bị ly tán, bị trấn áp cướp phá thảm thương?!
Điều đáng buồn là cho tới nay, nhiều người vẫn còn nói theo kiểu vô trách nhiệm của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, là đổ tội cho Mỹ làm mất Miền Nam, mà không biết tự trách mình trước tiên đã không tự lập, tự chủ, tự cường trong đại sự tự bảo vệ Quốc gia & Dân tộc, mặc dù được Mỹ và nhiều nước khác tích cực giúp đỡ gần 20 năm?!
Trên thế giới Mỹ đã giúp Đức, Nhật, Nam Hàn đều đạt thành quả vẻ vang, chỉ riêng tại Việt Nam thất bại, là điều chúng ta cần tự vấn - thẳng thắn mạnh dạn tìm nguyên do hầu khắc chế, mới mong phục hồi nguyên khí Nhân + Trí = Hùng, bị các nền văn hóa ngoại lai làm cho tha hóa & vong bản... vùi dập quá dài lâu?
Hậu quả này sẽ còn kéo dài khi một số đáng kể thoát ra đến nước ngoài, hoặc bị vây hãm trong nước, trải mấy chục năm qua một số trong chúng ta tuy có năng nỏ đứng ra hoạt động đấu tranh quang phục, nhưng vẫn chưa có được những tư tưởng mới mẻ, hành động sáng suốt và hữu hiệu trong trận chiến mới; trong lúc đa số thầm lặng hầu hết thất vọng, chán nản, cam chịu, bởi tính ỷ lại khi cho là vẫn chưa thấy được bậc minh chủ xuất hiện để theo - thay vì chủ động tham gia hoặc tự đứng ra vận động và hành động?!
Cái khó của cuộc đấu tranh hiện nay, là làm sao có thể phổ biến rộng rãi & sắc bén các lý giải mới mẻ hợp tình & hợp lý về các khuyết điểm đưa đến đại bại, các sự kiện ác hại do Cộng sản gây ra để thuyết phục, tác động được khối đại đa số thầm lặng đã thất vọng trở nên hy vọng ủng hộ, tiếp tay - khi Cộng sản Việt Nam đã và đang bị Trung Cộng dùng diễn tiến 'hữu nghị' gian trá bịp bợm xâm lược, chiếm hết các vùng biển đảo đến biên giới, vùng mỏ khoáng sản Tây Nguyên, đưa quân cải trang thành công nhân vào làm việc chiếm giữ các cứ điểm quan trọng, đồng thời tung hàng hóa giá rẻ và độc hại vào để giết dần mòn người dân và các cơ sở canh nông, chăn nuôi, công kỹ nghệ tại Việt Nam...
***
Muốn xây dựng lực lượng đấu tranh mới mẻ hữu hiệu, chúng ta cần 'biết mình - biết người' hiện nay có những ưu - khuyết điểm ra sao, tìm hiểu rõ những tâm trạng và phản ứng của Người Việt khắp nơi trong và ngoài nước như thế nào, sau khi đất nước rơi vào tay Cộng sản Hoa & Việt, mới có thể từ đó nghiên cứu rút kinh nghiệm, nêu ra các giải pháp cứu quốc thích hợp hữu hiệu?
Bước đầu cần giúp các Việt kiều về nước hiểu rõ các sai trái cũ mới lớn lao cụ thể của bạo quyền Cộng sản, để có thể truyền đạt ý chí phục quốc sâu rộng với người trong nước, cũng là một đòn chiến tranh tâm lý và chính trị quan trọng, vậy mà bấy nay chưa thấy tổ chức đấu tranh nào thực hiện?!
Do vậy, phần này chúng tôi xin được trình bày thứ tự theo dàn bài:
A/ Tình hình Người Việt Trong Nước sau 1975:
1/ Phản ứng của các Cựu đảng viên Cộng sản.
2/ Phản ứng của các nhân vật Miền Nam từng ủng hộ Cộng sản.
3/ Phản ứng của các nhà đấu tranh không Cộng sản.
4/ Phản ứng của đa số thầm lặng.
B/ Tình hình Người Việt Ngoài Nước sau 1975:
1/ Phản ứng của thành phần Chống Cộng.
2/ Phản ứng của thành phần muốn hòa giải.
3/ Phản ứng của đa số thầm lặng.
4/ Nhận diện bọn nằm vùng.
C/ Nhận định và thử nêu một số giải pháp.
**
Là người còn kẹt lại trong nước gần 10 năm sau 1975, bản thân chúng tôi đã đi tìm hiểu một số người và việc từ Nam ra Bắc, như các nhân vật hàng đầu nhóm Nhân Bản Miền Nam, nhóm Nhân Văn & Giai Phẩm Miền Bắc.
Khi ra được hải ngoại từ năm 1984 đến nay, chúng tôi đã hơn một lần tới Mỹ, Pháp, Đức, Anh, Ý, Thụy Sĩ, Đan Mạch, Canada, Trung Quốc, Hồng Kông... tận mắt nhìn, đọc - tận tai nghe và tham vấn & đối thoại với một số đáng kể người và việc, đồng thời chuyên tâm tham khảo sách báo trong và ngoài nước khi viết báo gần 40 năm qua, xin nêu lên một số tư liệu và ý kiến riêng tư như sau:
1/ Phản ứng của các Cựu đảng viên Cộng sản:
Là kẻ bỏ nhà di cư một mình năm 1954, nên từ 1975 sau khi bị bắt đi học tập cải tạo ở Tây Ninh về, hàng năm chúng tôi ra Bắc thăm lại gia đình, gặp gỡ nhiều bà con và bạn bè cũ mới, được thấy trực tiếp thái độ diễn biến của thành phần này, qua một số người và việc khá tiêu biểu như sau:
*Một ông chú làm Vụ trưởng ngành Tư pháp, sau khi tôi đi cải tạo trở về, đã đích thân vào Nam xin cho tôi đi dạy học trở lại. Nhưng chỉ sau mấy năm, hiểu rõ khả năng của tôi khi tôi biếu ông một số sách nghiên cứu về chính trị & văn hóa hồi trước 1975 của tôi, ông cảm thương khuyên tôi nên đi ra nước ngoài sinh sống, vì biết rõ chế độ sẽ không bao giờ dùng đến khả năng và kiến thức của người Miền Nam.
*Mẹ tôi khi gặp lại tôi sau hơn 20 năm xa cách nói: 'Gặp con mẹ cũng mừng, nhưng nếu con thoát đi được, mẹ còn mừng hơn nữa!'
*Nhiều bậc chú bác có quân hàm cấp tá, khi thấy tôi nói Mỹ sẽ có chương trình HO đưa cựu quân nhân Miền Nam qua Mỹ sinh sống, đã bảo tôi: 'Đánh giặc giỏi như các chú bác đây, Mỹ còn có thể dùng đi xâm lăng các nước, chứ đánh dở thất trận như quân đội Miền Nam các cháu, Mỹ nó rước đi để đổ nợ nữa à?
Chỉ khi thấy chương trình HO thành hiện thực, ai nấy mới chưng hửng, và buồn cho thân phận 'có công với chế độ' khi về hưu, lương hưu không đủ sống, phải làm đủ thứ việc lấy tiền giúp vợ con. Nhất là sau năm 1975, các cựu chiến binh Việt Cộng thời đánh Pháp còn bị giảm bớt các ưu đãi, nói là để có thể giành ưu đãi các cựu chiến binh mới có công trong cuộc chiến chống Mỹ, nên không ít sĩ quan cao cấp Miền Bắc khi nghỉ hưu đã phải ra đầu đường bươn chải, qua câu ca dao:
'Đầu đường thượng tá vá xe,
'Giữa đường trung tá bán chè đậu đen,
'Cuối đường thiếu tá bán kem,
'Còn đâu chỗ cấp úy chen chân vào?!
Truyện ngắn Tướng Về Hưu của Nguyễn Huy Thiệp, thể hiện phần nào thân phận người cựu chiến binh Cộng sản không tham ô, dù rất cao cấp ở miền bắc Việt Nam, bị con cháu miả mai lúc kinh tế khó khăn ra sao.
*Khi gặp một số văn nghệ sĩ Miền Bắc như Văn Cao, Hoàng Công Khanh, Đoàn Chuẩn... thấy tôi than khổ, các vị này đã mắng mỏ rằng:
'Các cậu được hưởng mấy chục năm sung sướng ở Miền Nam, không biết bảo vệ để mất... đâu có khổ cho bằng bọn này bao năm hy sinh cho chế độ, nhưng chỉ cần góp ý xây dựng chính đáng, liền bị đầy ải bao năm qua, khốn khổ từ vật chất đến tinh thần, làm sao xiết kể'?!
*Hai nhân vật hàng đầu văn võ của chế độ Miền Bắc là tướng Trần Độ và nữ văn sĩ đối kháng Dương Thu Hương, đã tâm sự chợt tỉnh ngộ biết mình bị lừa dối năm 1975, ngay khi vào nam, thấy thành phố Sài Gòn văn minh hiện đại ngoài sức tưởng tượng.
Bà Dương Thu Hương viết sách gọi thiên đường cộng sản là 'Thiên đường mù', tới năm 2008 viết cuốn 'Đỉnh Cao Chói Lọi' nêu cuộc sống nhục nhã của chính Hồ Chí Minh trong những năm cuối đời, bị chính lũ đệ tử cô lập trong hoàn cảnh vô cùng khổ nhục, vì những điều mình tự đề cao vạch ra trước đây.
Tướng Trần Độ muốn thực hiện đổi mới, cởi trói, khuyến khích các nhà văn giãi bày cảm nghĩ trung thực, giúp xuất hiện một số tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài... Sau đó, các nhân vật từng giữ các địa vị quan trọng như Hoàng Minh Chính, Nguyễn Hộ, Nguyễn Thanh Giang, Bùi Minh Quốc, Trần Khuê, Vũ Cao Quận... cũng thức tỉnh, tích cực viết bài góp ý canh cải chế độ như Gorbachev ở Nga, hình thành một cao trào phản tỉnh nhằm xây dựng đổi mới, được nhiều giới trẻ hưởng ứng - đấu tranh một cách can đảm và trí tuệ như Luật sư Lê Thị Công Nhân, Bác sĩ Phạm Hồng Sơn, Thạc sĩ Nguyễn Tiến Trung, Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ, Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, nữ sĩ Trần Khải Thanh Thủy, Cựu sĩ quan công an Tạ Phong Tần, nhạc sĩ Việt Khang... đã khiến Cộng sản Việt Nam hoảng sợ răn đe không xong, giam giữ tù đầy, cô lập, hoặc tống khứ ra nước ngoài...
**Các nhân vật như Trần Đức Thảo, Hoàng Văn Chí, Bùi Tín, Cù Huy Hà Vũ, Vũ Thư Hiên, Nguyễn Chí Thiện, Dương Thu Hương... dù ở trong hay ngoài đảng, một khi thoát ra nước ngoài, đã vạch trần những sự thật kinh hoàng về Hồ Chí Minh và Cộng sản... nhưng do đầu óc đấu tranh cục bộ hẹp hòi của cả hai phiá, các nhận vật này vẫn chưa thể hòa đồng nhuần nhuyễn với các cộng đồng và các tổ chức đấu tranh ở hải ngoại, tham gia trực tiếp vào các tổ chức phục quốc, làm mất đi những khí thế quan yếu của một cuộc đấu tranh chính trị rất cần nhiều nhân tố tâm lý chiến?!
**
Vài sự kiện trên cho thấy hầu hết các đảng viên Cộng sản ở Việt Nam đều nhận ra sự sai trái của chế độ, nhưng chỉ một số rất nhỏ có hùng tâm, dũng khí mới dám can đảm từ bỏ các đặc quyền, đặc lợi... bày tỏ sự bất bình. Chính những người này thực sự có lý tưởng yêu nước thương nòi, không chấp nhận một bạo quyền hung tàn, dũng cảm từ chối các ưu đãi riêng tư, đòi hỏi công bằng và nhân quyền cho dân tộc. Họ có thể khổ trong hiện tại, nhưng tên tuổi họ sẽ rạng ngời mãi trong sử sách. Họ chính là những kẻ 'thà chết vinh hơn sống nhục'.
Đáng tiếc là chính khí sáng ngời của họ chưa được người Việt tỵ nạn hỗ trợ nêu cao cho mọi người thấy, để noi theo. Những người này đáng kính trọng hơn ai hết, vì đã dám nghĩ, dám làm, dám chấp nhận mọi tai ương ngay trong lòng bạo quyền
.
Đây chính là phần nào hình ảnh của Lạc Long Quân và Âu Cơ khi dựng nước, chấp nhận hy sinh hạnh phúc, mỗi người mỗi ngả đưa con đi các nơi giúp dân phát triển.
Bọn học thức tha hóa bao năm qua đã bôi bẩn tư tưởng hành động của tiền nhân, xuyên tạc Âu Cơ và Lạc Long Quân chia con bỏ nhau, mà không hiểu đây là quan niệm 'Lời nói phải đi đôi với việc làm' của Người Việt từ nhiều ngàn năm trước, mà sau này các đệ tử Không Giáo mới rao giảng quan điểm 'Tri Hành hợp nhất'.
Bọn Cộng sản Hoa Việt rất sợ những kiểu người này, nên đã tìm mọi cách truy diệt. Khi Giáo sư Hoàng Minh Chính qua Mỹ chữa bệnh, đã bị không ít bọn 'nằm vùng' thóa mạ. Thay vì nhận diện vạch mặt chỉ tên bọn 'ăn cơm quốc gia - thờ ma cộng sản' này, một số giới truyền thông hải ngoại đã vô trách nhiệm khi đăng tải các bài bôi bẩn, mà không một lời lý giải phản biện nào?!
Các cây bút vượt thoát khỏi nanh vuốt Việt Cộng như Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Nguyễn Chí Thiện, Dương Thu Hương, Cù Huy Hà Vũ, Trần Khải Thanh Thủy, Điếu cày Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần... luôn bị bọn quá khích và nằm vùng vây hãm cô lập khi xuất hiện, nên chưa thể hoà đồng và truyền đạt hết được các điều tâm huyết của họ?
**
Với thành phần đấu tranh ngay trong nước, bị bạo quyền đẩy ra hải ngoại, chúng ta cần đề cao, bảo vệ và giúp đỡ họ, để họ có thể yên tâm tiếp tục đấu tranh, khi biết mình được hậu thuẫn mạnh mẽ từ phiá người Quốc gia. Chính nhờ những người này mà chúng ta dễ dàng nhận ra bọn nằm vùng, bấy nay chuyên đánh phá sự đoàn kết quốc gia, bôi bẩn những ai có khả năng dám đứng đầu sóng ngọn gió, nêu cao chính nghiã Dân tộc. Vì họ mới chính là những mũi nhọn đấu tranh, khi hiểu rõ Cộng sản hơn ai hết.
2/ Phản ứng của các nhân vật Miền Nam từng ủng hộ Việt Cộng:
Từng sinh sống ở Miền Nam từ năm 1954, sau các lần tản cư 1945, hồi cư 1949, di cư 1954 tuy lúc chỉ mới 16 tuổi, chúng tôi đã biết rõ Cộng sản đi tới đâu là gây khốn khó tới đó, phải bỏ cả gia đình giàu có ngoài Hà Nội, di cư vào nam một mình; nên chúng tôi không khỏi kinh ngạc trước những ai có trình độ học vấn và địa vị cao, mà lại vẫn có thể 'ăn cơm quốc gia - thờ ma cộng sản' - như các nhân vật trong tổ chức bù nhìn GPMN...
Đáng kinh ngạc nhất là với một số linh mục Thiên Chúa Giáo, tu sĩ Phật Giáo mà không biết là Cộng sản vô thần, từng đàn áp tôn giáo rất tàn nhẫn ở Liên Xô, Trung Quốc, Đông Âu, Cuba, Bắc Hàn và chính tại Việt Nam sau năm 1945 qua việc mượn cớ tiêu thổ kháng chiến, đốt phá tan tành nhiều nhà thờ và chùa chiền.
Đức Tổng giám mục Lê Hữu Từ dù được Hồ Chí Minh ưu đãi, vẫn phải bỏ Miền Bắc, đưa các tín đồ vào Miền Nam tìm tự do... Vậy mà một số tu sĩ vẫn lợi dụng sự tự do dân chủ của chế độ Miền Nam, thì thụt với Việt Cộng, cụ thể như 2 linh mục Nguyễn Ngọc Lan và Chân Tín, cùng không ít tu sĩ hàng đầu của Phật Giáo như Hòa thượng Trí Quang, Nhất Hạnh... cho đến khi tỉnh ngộ phản đối thì quá muộn, bị đầy ải gặp khốn khó nhiều bề:
**Linh mục từng nghe theo VC Nguyễn Ngọc Lan viết cuốn 'Hẹn Thắp Lên' (Lời chứng 25 năm 1975 - 2000) có các dòng tự sự như sau:
-'Chúng tôi bị quản thúc nhưng người ta (chỉ Việt Cộng) không thể quản thúc được tư tưởng và tiếng nói trong thời đại vệ tinh truyền thông này nữa. Ba năm rồi chúng tôi đã có tiếng nói tự do và rộng rãi hơn bao giờ hết. Cám ơn bè bạn và các báo ở Âu Châu. Đặc biệt xin cám ơn đài BBC và đài RFA đã liên đới với chúng tôi và quan tâm tới chúng tôi vì lợi ích chung của đất nước này.
-'Từ sau khi Đứng Dậy đình bản, thỉnh thoảng có người hỏi tôi: 'Bây giờ anh làm gì?' Tôi nửa đùa nửa thật trả lời: 'Làm thinh'.
-'Đối với anh em Tin Lành, nhất là nông dân ở những vùng xa như ở xã Bình Lãnh và xã Quế Châu, tỉnh Quảng Nam (TN 41) và đồng bào các tỉnh Quảng Ngãi và Gia Lai (Hre, Bahnar...) miền Trung (TN 40), tỉnh Bình Phước phiá Nam (TN 40), thì họ bị nhà cầm quyền tự do 'hành... đạo' họ, phải nói là bằng những cách thức thô bạo khó tưởng tượng còn có thể xảy ra khi 'loài người tiến bộ' sắp bước qua thế kỷ 21'.
-'Tiếng nói người dân ngoài đường, tiếng nói âm ỷ nhiều mặt và cả sự yên lặng không phải thờ ơ, không hề vô nghiã, tất cả đã ép những Hà Sĩ Phu, Lữ Phương, Hoàng Tiến, Nguyễn Đan Quế, Dương Thu Hương, Nguyễn Thanh Giang, Hòa thượng Quảng Độ, cụ Lê Quang Liêm, cụ Trần Quang Châu, linh mục Chân Tín và cả Hội đồng Giám mục Việt Nam lên tiếng. Lên tiếng để nói tiếng nói của người dân. Tiếng nói của con người. Của con người bị ép.
-'Tôi không dám gọi giám mục nào, linh mục nào là 'quốc doanh', vì tôi nghĩ các ngài có thể cũng hết lòng trăn trở, kể cả trong nước mắt, để tìm cách cho giáo hội được mở mang, dễ hoạt động. Nhưng những gì các ngài thu được trước mắt, không thể bù lại những mất mát quá lớn lao sẽ còn di lụy lâu dài trong lịch sử, làm méo mó hình ảnh một Giáo hội hiên ngang xây dựng Nước Trời, tự do rao giảng tiếng nói lương tâm, mạnh dạn phê phán mọi bất công, sai lầm bất cứ từ đâu đến; thay vào đó chỉ tạo nên hình ảnh một giáo hội yếu nhược, qụy lụy - ngày càng rõ nét - chạy theo một vài thuận lợi nhất thời trước mắt: chỉ biết cộng tác (collaborer) mà thiếu hẳn đề kháng (en résistant, công thức collaborer en résistant của Đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô II), làm nản lòng đại bộ phận Dân Chúa và bao người thiện chí trước đây vốn khâm phục Giáo hội Công giáo Việt Nam. Phải chăng nên uốn lưỡi vài lời 'phấn khởi', 'hân hoan', 'khôn ngoan', 'ngưỡng mộ'... để được các đặc quyền đặc lợi...?
-'Vậy kể từ nay, hầu hết linh mục Tổng giáo phận Huế chúng con xin được phép bất tín nhiệm linh mục Nguyễn Kim Bính trong tư cách là Tổng đại diện Tổng giáo phận Huế.
-'Tuy bất xứng, tôi cũng nguyện noi gương các Thánh Tử đạo Việt Nam, Tu sĩ Gioakim Marcel Nguyễn Văn Tân tử đạo rũ tù ngày 10-7-1959 tại trại 2 Yên Bình gần Hà Nội... (Linh mục Tađêô Nguyễn Văn Lý 24-12-1994).
**Linh mục phản chiến Chân Tín viết cuốn 'Nói cho con người (1975 - 2001)', có các dòng:
-'Chúng con cũng xin đề nghị Đức Hồng y và Đức cha thẳng thắn loại bỏ ra hàng ngũ các linh mục đã biến chất, mang nhiều tai tiếng về tác phong, vi phạm trầm trọng và bán công khai đến lời khấn độc thân, đã có vợ con mà vẫn thi hành mục vụ. Trường hợp cụ thể là trường hợp ông Phan Khắc Từ, Tổng thư ký của tổ chức gọi là 'Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu nước' tp HCM. Ông này đã từng công khai tổ chức ăn thôi nôi và sinh nhật con ông, nhưng chỉ công khai với các đồng sự của ông phiá Mặt Trận, Đảng và Nhà nước, còn thì vẫn qua mặt giáo hội để vẫn tiếp tục làm chánh xứ giáo xứ Vườn Xoài. Đây không phải là trường hợp duy nhất, đặc biệt trong số các linh mục này đã mất hết uy tín trước cộng đoàn, làm cho nhân dân chán nản mỗi khi phải cùng dâng lễ với các linh mục ấy.
Ngoài ra các nhân vật hàng đầu của Mặt trận Giải Phóng Miền Nam, như Luật sư Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ, Ngoại trưởng Nguyễn Thị Bình... sau 1975 chỉ được CSVN ban cho những chức vị bù nhìn ở quốc hội. Còn lại tất cả những ai không phải là đảng viên, đều bị 'cảm ơn' và nhanh chóng cho về vườn. Một số uất hận trốn ra nước ngoài theo dòng người tỵ nạn, viết sách nguyền rủa bọn Việt Cộng, chứng tỏ sự lầm lẫn tai hại ra sao.
**
Tự sự của 2 vị linh mục từng một thời gây nhiễu loạn không khí chính trị tự do - dân chủ Miền Nam vì những bài viết, hành động mà 2 vị này cho là chính nghiã; một vị còn vào mật khu liên hệ với bọn Việt Cộng những mong hợp tác để 'giải phóng' dân tộc.
Cho đến khi thấy bị lừa gạt đau đớn, thì đã quá muộn màng, chỉ còn biết viết những lời than thân trách phận gửi ra nước ngoài phổ biến cho ai nấy hiểu.
Điều đáng kinh hãi, là trong khi rất nhiều tu sĩ chân chính của các tôn giáo đang bị đầy đọa giam hãm ở trong nước, thì không ít các tu sĩ ở trong nước và hải ngoại vẫn sẵn sàng hợp tác với bọn vô thần.
Là những lãnh đạo tinh thần của nhiều tôn giáo, luôn rao giảng đức tin nơi thờ phượng, nên các vị này là những tấm gương cho các tín đồ noi theo. Vì vậy khi một vị tu sĩ sai lầm, sự tai hại gấp trăm lần một người bình thường sai lầm.
Đây chính là lý do chúng ta thấy bấy nay có rất nhiều khuôn mặt sáng sủa, cam tâm theo Việt Cộng, xuất nhập cảnh nhơn nhơn không thấy chút gợn nào trong lòng.
Một khi quốc gia bị bạo quyền vô thần tác hại, tôn giáo chính là sức mạnh tinh thần quan trọng nếu biết rao giảng những điều ích quốc lợi dân - thay vì thoái hóa biến thành tín ngưỡng ngu dân, như không ít nơi thờ phượng hiện nay ở trong nước và hải ngoại?!
Điều đáng buồn là những phần tử quốc gia xuẩn động, đã không coi trọng những người từng lầm lẫn theo Việt Cộng, nay giác ngộ trở về với chính nghiã quốc gia. Vài kẻ quá khích còn đòi hỏi những người Cộng sản giác ngộ phải chống cộng theo kiểu cách một chiều lỗi thời của mình, mà không thấy rằng lối chống của mình hời hợt, lý luận không qua đào tạo thua kém những người từng đi theo và được cộng sản đào tạo rất xa.
Hơn nữa, còn vì chỉ những kẻ ở trong chăn mới biết trong chăn có rận, bị rận cắn ra sao để trị?!
Cần lưu tâm là thành phần giác ngộ này này khi ra được hải ngoại, không ít đã bị bọn nằm vùng tìm cách cô lập bôi bẩn vô hiệu hóa rất bẩn thỉu, bằng những vu khống... được không ít những kẻ hời hợt cả tin?! Cụ thể như thi sĩ Nguyễn Chí Thiện đến nay vẫn còn bị cho là giả hiệu, bị giảm thiểu ảnh hưởng đáng kể...
3/ Phản ứng của các nhà đấu tranh không cộng sản:
Khi Cộng sản chiếm Hà Nội năm 1954 và Sài Gòn năm 1975, nhiều người Việt trong nước đã vì những lý do vật chất hay tinh thần, như không có khả năng tài chính, không muốn rời xa nhà cửa quê hương, gắn bó với nơi quê cha đất tổ; hoặc lầm tưởng rằng mình chỉ là người dân lành chí thú làm ăn, sẽ không bị ảnh hưởng tai hại nào...
Tuy nhiên, chỉ sau một thời gian sống dưới chế độ Cộng sản, họ đã bị uy hiếp bóc lột mất hết quyền lợi - tài sản lẫn đất đai nhà cửa, không thể chịu đựng mà phải tìm cách bỏ nước ra đi. Cao hơn là những người có tâm huyết với quốc gia & dân tộc, thấy chế độ quá ư tàn nhẫn với người dân, nhưng đớn hèn dâng đất nước cho quan thầy Trung Cộng, nên đã không thể khoanh tay nhìn, đứng ra đấu tranh bằng các bài viết, các phát biểu, các hành động.
Tiêu biểu cho lớp trẻ tuổi trí tuệ và can trường nhất, về phiá nữ là luật sư Lê Thị Công Nhân, Trần Khải Thanh Thủy, Tạ Phong Tần, Mẹ Nấm... đã có những phát biểu và hành động khiến ai nấy kính nể, ca ngợi...
Về phiá nam là du sinh thạc sĩ Nguyễn Tiến Trung, từ Pháp trở về Việt Nam đương đầu. Bằng những lý lẽ đanh thép và hành động quả cảm sáng suốt,
Nguyễn Tiến Trung đã biến việc bị bắt đi quân dịch của mình thành một cuộc đấu tranh, đánh thẳng vào tim não của bọn Việt Cộng, khi không chấp nhận đọc lời thề 'Trung với Đảng - Hiếu với Dân', mà đòi chỉ chấp nhận lời thề 'Trung với Nước'; khiến bọn Việt Cộng bị vạch trần sự gian trá bao lâu nay. Việc này có ảnh hưởng thẳng đến tâm não người lính Việt Cộng, thức tỉnh họ hơn hẳn những bài báo lý luận xa vời?
Sự việc này còn được làm sáng tỏ thêm vào tháng 1-2011, qua lá thư viết từ trong tù của Luật sư Cù Huy Hà Vũ, phân tích hai chữ Tổ Quốc, để vạch rõ chúng ta chỉ có Tổ Quốc Việt Nam, chứ không thể có cái Tổ Quốc XHCN vô nghiã, vì XHCN là chỉ một chủ nghiã - nhằm xuyên tạc ý nghiã cao cả của hai chữ Tổ Quốc.
Vậy mà trong một lần vào cuối năm 2008 khi nghe một nhà đấu tranh hải ngoại thuyết trình, vị này đã tỉnh queo cho là Nguyễn Tiến Trung nay về nước đã đi lính cho Việt Cộng!!! Suy nghĩ thiển cận đến như vậy, thì làm sao có thể thuyết phục người nghe?! Và khi Nguyễn Tiến Trung vì bị nguy cơ tiêu diệt, phải tạm hòa hoãn để tồn tại, cũng bị những kẻ ngồi mát ở hải ngoại chê trách, mà không chịu hiểu rằng điều kiện ắt có và đủ là cần phải tồn tại khỏe mạnh mới có thể tiếp tục đấu tranh?
Mới nhất, Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ cũng bị đẩy ra hải ngoại, tuy có những phát biểu đấu tranh thể hiện sự hiểu biết sâu sắc, đi vào cội nguồn của nan đề, vẫn bị bọn nằm vùng tìm cách bôi bẩn!
**
Các nhân vật đáng trọng vọng trên đều là những người trẻ, sinh sau đẻ muộn ngay trong lòng chế độ, tuy bị chế độ nhào nặn nhưng đã có được những lý luận và hành động hiếm thấy ở những người đi trước?
Tư duy của họ hoàn toàn vì nước vì dân một cách trong sáng, tạo được niềm tin mới vào tương lai Quốc gia & Dân tộc.
Quanh họ còn rất nhiều những người trẻ tuổi khác đấu tranh, nhưng do hoàn cảnh sức khỏe, an ninh của gia đình... nên chưa thể quật cường trước bạo lực. Điều này chúng ta nên thông cảm, vì cần bảo toàn nhân lực cho cuộc đấu tranh trường kỳ.
Nên biết là Luật sư Lê Thị Công Nhân tuy dấn thân vào hang hùm, nhưng tính mạng vẫn chưa nguy hiểm, sau 3 năm tù đã được về lại cuộc sống, vẫn còn là một trong những hy vọng của tương lai; không kém may mắn như các nhà đấu tranh bị nhiều chứng bệnh có thể chết trong tù, rất uổng phí đáng tiếc?
Lịch sử cho thấy nhiều vị lãnh tụ và tướng lãnh dũng cảm tử tiết khi mất nước, rất đáng qúy trọng. Nhưng càng qúy trọng hơn nếu những vị này lưu lại tính mạng qúy giá của mình, nín thở qua sông, chờ tạo cơ hội mới.
Nhỡn tiền cho thấy chúng ta đang thiếu quá nhiều nhà lãnh đạo tài đức, chỉ vì một số vị như Nguyễn Thái Học, Nhất Linh, 5 vị tướng tuẫn tiết ngày 30-4-1975... đã không còn để tham gia cuộc chiến phục quốc rất quan trọng tiếp theo?!
Mỗi công cuộc đấu tranh lớn lao, đều cần đến rất nhiều người tài đức có trí sáng - tâm trong - gan dạ. Họ chính là nhân tố giúp đại sự thành công.
Còn những thành phần quá khích viết lách nói năng thiển cận, phê bình công kích bừa bãi rất vô trách nhiệm... bấy nay chỉ khiến cho việc đấu tranh bị chia rẽ tan hoang, không sao hợp quần làm nên sức mạnh được!
Qua gia đình họ Cù, cho thấy nếu các bậc cha anh không chịu đấu tranh, con cháu mình cũng sẽ phải đấu tranh? Vậy có nên sớm hành động để có thể giúp con cháu sau này khỏi lâm nguy?
4/ Phản ứng của đa số thầm lặng:
Ngay sau 1975, khi thấy Cộng sản đổi tiền theo kiểu cướp bóc trắng trợn ''một ăn mười'', rồi dở trò đánh tư sản để tịch thu vơ vét hết nhà cửa và của cải của giới tư sản, mà giới dân nghèo chẳng được hưởng gì; trong khi lương thực mắc mỏ khan hiếm khiến hầu hết phải ăn cơm độn bo bo, ai nấy mới giật mình tỉnh ngộ chán ghét; những kẻ hăng hái theo Cộng sản nhất cũng vỡ mộng...
Mọi người đua nhau tìm đường vượt biên, đến độ có câu 'cái cột đèn mà có chân nó cũng phải bỏ đi' - và dư luận quốc tế cho các cuộc vượt biên tràn lan khắp nước từ nam chí bắc, là một cuộc bỏ phiếu 'bằng chân' với chế độ.
Bất cứ cuộc đấu tranh nào muốn thành công, đều cần đến sự ủng hộ của đa số thầm lặng. Vì một khi được đa số thầm lặng hậu thuẫn, sẽ có sức mạnh vô địch không ai chống lại. Cụ thể như lần Người Việt Tỵ Nạn tại Úc biểu tình, chống việc Đài truyền hình sắc tộc Úc SBS cho chiếu chương trình truyền hình tuyên truyền một chiều VTV4 của Cộng sản Việt Nam, đã khiến SBS phải hủy bỏ kế hoạch đã ký kết... chặn đứng ngay từ đầu mưu đồ chuyển tải các chương trình truyền hình tuyên truyền thông tin một chiều trơ trẽn rẻ tiền của chúng, ra các nước có đông đảo người Việt sinh sống.
Ngoài ra trong lần đấu tranh thành công vẻ vang này, cũng phải kể đến công lao của nhóm lãnh đạo Cộng đồng, khi sáng suốt nêu vấn đề khác biệt giữa 'thông tin' và 'tuyên truyền', chứng minh Cộng sản không hề thông tin mà chỉ tuyên truyền một chiều; mới khiến Đài SBS đuối lý chịu thua?
Do vậy, điều khó khăn là làm sao có được tư duy chỉ đạo sáng suốt hợp lý & hợp tình, để có thể tác động hữu hiệu vào đa số thầm lặng, đã và đang bất bình cao độ qua các cuộc biểu tình của dân oan, của tín đồ bị chiếm nhà đất và nơi thờ phượng sinh hoạt của các tôn giáo khắp nơi trong nước, từ thành thị đến thôn quê ?
Đặc tính của đa số thầm lặng là chỉ khi thấy lý do chính đáng kèm theo mối nguy nan gần kề, họ mới chịu dấn thân với điều kiện có người lãnh đạo được tin tưởng. Mà khi đã dấn thân thì vô cùng hăng hái, dễ bị tác động mạnh, sẵn sàng hy sinh.
Ngày xưa, thời nhà Trần, Hội nghị Diên Hồng là một thành công lớn lao khi vận dụng được đa số thầm lặng, để rồi đạt tới thành quả toàn dân chống giặc, 3 lần đánh thắng quân Nguyên Mông. Tại hội nghị, vua Trần đã khéo léo tác động đến vai trò của các vị bô lão - những người tưởng là già yếu không còn hữu dụng nào cho việc đao binh, nhưng nhờ họ tác động vào giới trẻ trong gia đình mà thành công lớn lao.
Ngày nay, người cao niên trong và ngoài nước rất đông, sự căm ghét Cộng sản của họ là vô cùng tận, vì ai nấy đều đã từng là nạn nhân tận mắt chứng kiến bao việc bại hoại do bọn bạo quyền gây ra. Nhưng tiếc thay, hầu hết mang nặng tâm lý nay mình về hưu là 'đồ bỏ', vì chẳng thể nào đủ sức khỏe giúp gì cho Quốc gia & Dân tộc như hồi trai trẻ; mà không hiểu rằng cuộc chiến nào cũng cần có những tác động sâu rộng về tình cảm, tâm lý?! Và Cộng sản buổi đầu thắng lợi nhanh chóng, chính là nhờ biết dùng thơ & nhạc tác động quần chúng - một cách tuyên truyền sắc bén mà như không tuyên truyền bao nhiêu?
Do vậy, nếu tái hiện việc các bô lão đời Trần đã họp Hội nghị Diên Hồng, giúp nước bằng cách tác động lớp con cháu, sẽ thức tỉnh được tâm thức ái quốc đồng loạt của giới cao niên, trung niên, thiếu niên, tạo nên sức mạnh vô song.
Hiện nay, hàng năm có hàng chục ngàn người Việt từ hải ngoại về thăm quê hương, đa số là các vị cao niên. Nếu chúng ta biết vận dụng kho tàng nhân lực này trong cuộc đấu tranh trên phương diện tuyên truyền tâm lý chiến, như nhờ họ chuyển tải một số thông tin về việc Trung Cộng xâm lấn bấy nay, Việt Cộng hèn hạ luồn cúi với Trung Cộng ra sao, đàn áp thô bạo người dân trong nước như thế nào... chúng ta sẽ thắng lợi vẻ vang như ở Ba Lan gần đây, như Hội nghị Diên Hồng xa xưa.
Thiển nghĩ, các tờ Báo Tết hàng năm nên có những bài tổng kết về Người và Việc của Cộng sản Việt Nam trong các năm qua, theo ý hướng giúp Việt Kiều về nước phổ biến, sẽ hữu ích hơn là chỉ bình luận một cách hời hợt và chung chung mọi chuyện?
Đáng tiếc là các tổ chức đấu tranh bấy nay xa rời các hội cao niên, ít khi léo hánh tới để hàn huyên tâm sự với các cụ, đề cao tầm quan trọng của các cụ như vua Trần tại Hội nghị Diên Hồng - khi hàng tuần các cụ đều có những buổi gặp mặt sinh hoạt đông đảo.
Chỉ cần cử người đến thăm và cố vấn để khi các cụ về nước, nhỏ nhẹ nêu lên những tình cảm bình thường khi thấy mất đất biên giới, mất các hải đảo, mất Tây Nguyên, mất rừng đầu nguồn 10 tỉnh, mất các thị phần đủ thứ do hàng Trung Cộng tràn lan... cũng sẽ có những tác động đáng kể, góp gió thành bão.
Cộng sản Việt Nam cấm báo chí trong nước phổ biến các loại tin kể trên, chứng tỏ họ lo sợ vô cùng, nên nếu những tin này hàng năm được cả chục ngàn người về nước phổ biến sâu rộng, sẽ tạo ra những ảnh hưởng to lớn không ngờ, vì hành động cứu quốc nào cũng bắt nguồn từ các ý thức chung?
Theo thiển ý chúng tôi, các cuộc đấu tranh tôn giáo, xã hội trong nước, bấy nay mang tính cục bộ riêng tư hạn hẹp trong vấn đề nhà đất, nên chưa được sự ủng hộ rộng rãi của toàn dân, bị bạo quyền Việt Cộng dùng các đòn hèn hạ đánh tiả dần mà thất bại?
Nếu song song với vấn đề riêng tư, tung ra các khẩu hiệu chung, như chống Trung Cộng lấn chiếm lãnh thổ, lãnh hải, bắt giữ đánh đập ngư dân... ắt sẽ được sự ủng hộ sâu rộng hơn, khiến bọn bạo quyền Việt Cộng bị tố giác thêm các tội ác lớn với dân tộc, mà thất bại.
Cụ thể như vụ Giáo xứ ở Đống Đa, Hà Nội, khi biểu tình chống việc bị cướp khu ao hồ, có nêu thêm khẩu hiệu chống bauxite Tây Nguyên, đã khiến Việt Cộng lập tức ngưng lấn chiếm, không còn dám vọng động ở nơi này nữa?
Trước 1975, một số ít người Việt Nam đã ra sinh sống ở hải ngoại, với các lý do riêng tư về quân sự, hoặc chính trị. Đông đảo nhất buổi đầu là những người Việt qua Âu Châu đi lính giúp Pháp trong các cuộc thế chiến, rồi một số đã ở lại; chưa kể nhiều người có quốc tịch Pháp, đã đi theo các cuộc rút quân của Pháp hồi năm 1954 và 1975. Một số đáng kể có chức quyền lớn, sau khi bị thay thế cũng thường ra nước ngoài sinh sống...
Ngoài ra cũng còn một số du học sinh học xong, được ở lại định cư tại nhiều nước như Pháp, Mỹ, Anh, Úc, Canada... tổng cộng khoảng 200.000 người sống rải rác nhiều nơi xa nhau, nên chưa thể hình thành được một cộng đồng nào, mà chỉ có vài tổ chức ái hữu nhỏ nhoi không đáng kể.
Phải tới biến cố Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ ngày 30-4-1975, đưa đẩy hàng trăm ngàn người bỏ ra nước ngoài sinh sống cùng lúc, sau đó kéo theo hàng triệu người vượt biển, mới hình thành nhiều Cộng Đồng Tỵ Nạn ở các châu Âu, Mỹ, Úc, Á... tạo nên sức mạnh về nhiều mặt, khiến chính Cộng sản Việt Nam phải nể sợ, thay đổi thái độ miệt thị coi thường ban đầu, tìm cách thành lập các kế hoạch qui mô, nhằm lôi cuốn người Việt Tỵ Nạn vào qũy đạo của họ - cụ thể như Nghị Quyết 36...
**
Có thể nói Cộng Đồng Người Việt Tỵ Nạn Hải Ngoại nên có một ngày hàng năm tri ân Đại sứ Mỹ Martin, do ông đã nhìn thấy trước sự bạo tàn kinh khủng của Cộng sản khi chiếm cứ ở Đông Âu, Trung Quốc, Bắc Hàn, Cuba... nên xin phương tiện di tản cho cả người Việt, sau khi Quốc hội Mỹ có chủ trương chỉ di tản người Mỹ mà thôi. Đây cũng là dịp dễ kết hợp lòng người hàng năm với chủ đề 'ăn quả nhớ kẻ trồng cây', hầu có thể từ đó cùng nhau ôn chuyện cũ, tác động tinh thần ái quốc, mưu bàn đại sự?
Chính nhờ Đại sứ Martin mà cuối tháng 4-1975 đã có 140.000 người Việt tại Miền Nam nhờ các phương tiện hàng không và hàng hải của Mỹ cứu giúp, chạy thoát khỏi tay Cộng sản, ra nước ngoài sinh sống quần tụ, nêu gương tốt - được các nước mến phục nhận cho tỵ nạn rồi cho phép bảo lãnh đoàn tụ gia đình, đặt nền móng đầu tiên xây dựng các Cộng Đồng Việt Tỵ Nạn trên thế giới:
Buổi đầu Pháp nhận 52.000 người - Canada nhận 7.000 người - Úc nhận 2.700 người - Mã Lai nhận 1.400 người - Tây Đức nhận 890 người - Bỉ nhận 880 người...
Sau đó là cao trào vượt biên, theo con số của Cao ủy Tỵ Nạn LHQ tính đến ngày 31-7-1979 là 292.000 người.
Từ năm 1979, do cuộc chiến bất hòa giữa Trung Cộng và Việt Cộng, Cộng sản Việt Nam đã xua đuổi người Hoa từ bắc chí nam. Ở miền bắc, người Hoa bị đuổi qua biên giới, nhiều người sợ cộng sản, chạy qua Hồng Kông xin tỵ nạn. Ở miền nam, người Hoa bị xua đuổi qua chính sách vượt biên bán chính thức (phải nộp vàng mới được ra đi bằng những chuyến tàu thuyền được công an do Mai Chí Thọ tổ chức). Và rất đông người Việt khá giả cũng nhân đó ào ạt đi theo.
Do có quá đông người dùng các con thuyền mỏng manh vượt biển, bị bão tố làm chết nhiều, nên ngày 13-6-1989 Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc mở phiên họp tại Genève, bàn về vấn đề Người Việt Tỵ Nạn, nhằm công nhận bảo đảm quyền tỵ nạn cho người Việt, thực hiện chương trình Ra Đi Có Trật Tự ODP.
Vào cuối năm 1989, Mỹ được Cộng sản Việt Nam chấp nhận thực hiện Chương trình HO, đón nhận các tù nhân bị họ giam giữ vì lý do phục vụ chế độ Việt Nam Cộng Hòa, nhưng với điều kiện phải bị giam giữ từ 5 năm trở lên. Sau được giảm xuống 3 năm với các điều kiện về chính trị, quân sự.
Việc đưa các Cựu Quân Cán Chính Việt Nam Cộng Hòa qua Mỹ, cũng phải nhớ đến công lao của bà Khúc Minh Thơ - người thành lập Hội Gia đình Tù nhân Chính Trị Việt Nam vận động hữu hiệu ngay từ năm 1977...
Tính đến năm 1995, số người Việt định cư ở các nước trên thế giới vào khoảng:
-Hoa Kỳ 950.000 người.
-Pháp 250.000 người.
-Canada 180.000 người.
-Úc 150.000 người
-Đức 96.000 người, trong đó có khoảng 40.000 công nhân xuất khẩu từ Bắc Việt qua Đông Đức, không chịu hồi hương sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ.
-Anh 24.000 người.
-Na Uy 13.000 người.
-Bỉ 10.000 người.
-Hòa Lan 10.000 người.
-Đan Mạch 9.000 người.
-Thụy Sĩ 5.000 người.
-Ý 5.000 người.
...
Ngoài ra còn có khoảng vài trăm ngàn người khác, ra đi từ Miền Bắc theo diện du học sinh và xuất khẩu lao động qua Liên Xô và các nước Đông Âu trước khi cộng sản sụp đổ, đã tìm cách ở lại sinh sống. Số này gia tăng thêm, khi Cộng sản Việt Nam tiếp tục đưa người ra nước ngoài làm lao công, gọi là ''xuất khẩu lao động'' để thu ngoại tệ, nên còn có mặt thêm ở các nước vùng Trung Đông, Nhật Bản, Đài Loan, Nam Hàn, Mã Lai, Nam Dương... Và cũng nên kể đến khoảng vài chục ngàn phụ nữ do sự cai trị quản lý khắc nghiệt của Cộng sản, gia đình lâm hoàn cảnh khốn khó phải đi lấy chồng già nua, bệnh tật ở nước ngoài, như kiểu Thúy Kiều bán mình chuộc cha thời phong kiến!
Rất tiếc con số tổng cộng gần 3 triệu người này chưa được kết hợp chặt chẽ thành một khối, tuy cùng là nạn nhân của một chế độ tham tàn. Lý do là chưa có ai đủ khả năng nêu được mẫu số chung một cách có tình & lý, để mọi người gạt qua các tị hiềm về tôn giáo & đảng phái & địa phương gây cách biệt bấy nay?
1/ Phản ứng của thành phần chống cộng:
a/ Các đảng phái:
Các đảng phái cũ và mới đã hoạt động mạnh mẽ ở hải ngoại sau 1975, nhưng hầu hết chưa canh cải, vẫn chưa đưa được văn hóa vào chính trị nên vẫn chia rẽ và không có sự cải tiến nâng tầm thay đổi nào về tư tưởng và hành động đáng kể, vẫn đặt tổ chức của mình trên quyền lợi Quốc gia & Dân tộc, thiếu sự liên kết với các đảng khác, gây đấu đá từ trong nội bộ đến bên ngoài.
Một số không ít đảng phái và tổ chức bị bọn Việt Cộng nằm vùng xâm nhập phá hoại tan nát, đến độ sau gần 40 năm vẫn duy trì các hệ phái tuy cùng một đảng, chưa thể hợp quần làm nên sức mạnh?!
Ngoài ra, sự kết hợp giữa Người Việt Tỵ Nạn với các tổ chức đấu tranh của người Việt ở Nga và các nước Cộng sản Đông Âu cũ chưa đáng kể, do đầu óc cục bộ hẹp hòi, cũng làm mất đi một thế lực quan trọng.
Đáng tiếc nhất là một số thành phần đáng kể từng được huấn luyện rất bài bản cao cấp nhiều năm về khả năng hành chánh và chính trị, khi xuất thân từ các trường Quốc Gia Hành Chánh, Chiến Tranh Chính Trị... đã không phát huy được sở học đáng kể sau 1975, khi ít tích cực tham gia một cách hữu hiệu vào các tổ chức xây dựng cộng đồng và đấu tranh ở hải ngoại, chỉ hoạt động ái hữu nội bộ là chính.
Họ không ngờ rằng môi trường sống ở hải ngoại mới là nơi để họ thi triển khả năng, hơn bao giờ hết đây mới chính là lúc đồng bào rất cần đến họ - nhất là lúc này đây mới đúng là thời điểm:
''Rồng Mây khi gặp hội ưa duyên
''Đem quách cả sở tồn làm sở dụng.
Cụ thể như Liên Minh Dân Chủ của Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, ngày càng thiếu bóng dáng tham gia của thành phần cốt cán buổi đầu, là các vị tốt nghiệp trường Quốc Gia Hành Chánh, để cho nhiều thành phần phức tạp khác nhảy vào, gây chia rẽ, vô hiệu hóa các Ban Chấp hành Cộng đồng, như tại Melbourne - nơi chúng tôi cư ngụ chứng kiến...?
Trong các nhân vật hàng đầu của Tổ chức Kháng Chiến do Đề đốc Hoàng Cơ Minh lãnh đạo, cũng thiếu bóng dáng của các sĩ quan tốt nghiệp trường Chiến Tranh Chính Trị, nên đã nhanh chóng rơi vào tình trạng thất nhân tâm một cách đáng tiếc?!
Phải chăng đây là lỗi của đường lối giáo dục thiên về khoa bảng, thư lại... xa rời truyền thống cội nguồn và thực tế hiện đại, nên mới không thể tạo được tâm thức yêu nước & thương dân theo truyền thống ''Đồng Bào'' - hậu quả là chỉ có ý thức phục vụ một khi còn được trả lương theo kiểu mẫu đào tạo 'bầy tôi' rồi 'bồi tây'???
Còn các đảng kỳ cựu bề thế như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Cách Mạng Đảng... vẫn chia rẽ như ở trong nước. Lý do được Giáo sư Nguyễn Khắc Ngữ nêu ra trong cuốn 'Đại cương về các Đảng phái Chính trị Việt Nam' trong phần '
:Các Đảng phái Quốc gia ở Hải ngoại sau 1975' như sau:
'Sự thất bại của các đảng phái quốc gia trong những năm gần đây, đã phải đặt cho các đảng phái này một số vấn đề lớn cần được giải quyết ngay như Lãnh tụ, Đường lối Lãnh đạo, Lý thuyết chỉ đạo, Cán bộ thừa hành, Kỷ luật của tổ chức, Đảng phái và quần chúng, Đảng phái và chính quyền v.v...'.
(Trích sđd trang 119)
b/ Các cơ quan truyền thông:
Buổi đầu là các tờ báo tháng, báo tuần, rồi báo ngày phát triển. Nhưng đa số do sớm xa rời lý tưởng phục quốc, cạnh tranh theo chiều hướng tiền bạc, phần bài vở phải nhường chỗ cho các quảng cáo, biến nhiều tờ báo thành các tập quảng cáo rẻ tiền, nên tuy dầy cộm mà chẳng có gì đáng đọc bao nhiêu. Tệ nhất là khi đăng các bài nêu quan điểm về chính kiến, hầu hết có chú thích là chỉ có tác giả chịu trách nhiệm, còn tờ báo không 'liên quan'?!
Về những người viết, một số cây bút học thức Miền Nam mới cũ đóng góp bài vở tuy nhiều, nhưng vẫn chưa thoát ra được lối mòn cảm nghĩ cũ kỹ xa xưa, vẫn tự cao tự đại kiểu độc thoại - không khác gì tự soi gương vái mình như nhóm Sáng Tạo ở miền nam... sau 1954 - nên cũng không giúp các phong trào đấu tranh ở hải ngoại cải biến bao nhiêu, mà còn khiến người đọc có ý thức dần dần thất vọng, chán chường rời xa.
Một số nhà văn, nhà báo Việt Cộng tỉnh ngộ, chạy ra được nước ngoài tỵ nạn, đã có những bài viết sắc bén tố cáo & phê phán Cộng sản, được nhiều người tìm đọc, nhưng phần lớn còn nể vì Hồ Chí Minh & tôn trọng lá cờ đỏ sao vàng - mà chưa hiểu rằng từ khi xuất hiện đến nay, hai thứ quỷ quái này có quá nhiều tội lỗi vì chỉ đưa đẩy Quốc gia & Dân tộc vào chỗ tương tàn đẫm máu, đói khổ triền miên; để rồi khi nắm được quyền hành nhất thống, đã dâng đất & dâng biển & dâng rừng cho quan thầy Cộng sản, đổi lấy vũ khí và sự che chở chống lưng, hầu mong có thể tiếp tục đàn áp thô bạo dân chúng, mà nghĩ rằng làm như thế sẽ không sợ bị lật đổ, trâng tráo tuyên bố ''thà mất nước chứ không để mất đảng'', bắt quân đội phải thề trung với đảng thay vì trung với nước!
Trong khi đó thơ văn nhạc 'tỵ nạn' sau 1975 hầu hết có nội dung than vãn về chuyện nước mất, về bản thân mất hết các sở hữu từ tinh thần đến vật chất, nguyền rủa Cộng sản một cách thô thiển, thiếu hẳn các đòn cân não - thay vì cần tìm kiếm nghiên cứu viết về những đề tài văn hóa tư tưởng mới mẻ, phục hưng nền tảng tinh thần truyền thống quốc gia & dân tộc cổ truyền... sau mấy ngàn năm bị các nhà văn hóa - tư tưởng - tôn giáo vong thân vọng ngoại yếu kém hủ hóa, làm cho bị tha hóa mà vong bản, không còn hiểu biết bao nhiêu về văn hóa cội nguồn có rất nhiều nội dung tinh hoa vượt bậc!
Duy đáng khen là Trung tâm ASIA có đường hướng đấu tranh văn hóa & chính trị, phục hồi nhiều tác giả và nhạc phẩm có giá trị trong một số chủ đề tác động lòng yêu nước, được đông đảo đồng bào trong và ngoài nước tán thưởng, chứng tỏ một khi nêu cao chính nghiã sẽ được sự đồng tình của nhiều người.
Có thể nói âm nhạc thời VNCH do phản ảnh được trung thực cuộc sống tốt đẹp đương thời, cùng tinh thần chiến đấu hào hùng... nên đã mạnh mẽ tồn tại và tái phát triển, dù chế độ nuôi dưỡng nó không còn, khiến chế độ muốn tận diệt nó nay phải cúi đầu thừa nhận, chấp nhận để tái phát huy sâu rộng.
c/ Các tổ chức giáo dục:
Tại một số nơi có đông đảo người Việt sinh sống quần tụ, như ở Mỹ, Pháp, Úc, Canada... một số nhà giáo cũ mới đã có thiện chí tổ chức các lớp học tiếng Việt vào cuối tuần. Khá nhiều nước đã hỗ trợ tài chánh và phương tiện cho các lớp học này, thậm chí còn tổ chức thi để lấy thêm điểm cho kỳ thi cuối lớp 12. Đông đảo phụ huynh gửi con tới học, mong chúng có thể biết đọc biết viết tiếng Việt...
Đáng buồn là các chương trình giáo dục này đều mang nặng hình thức dạy chữ Việt, mà sao lãng phần nội dung dạy văn hóa Việt. Cụ thể như chương trình ở Úc, khi dạy về ẩm thực của người Việt ở lớp 11, đã dạy 2 món chả giò và phở - thay vì nên dạy 2 món bánh chưng và xôi nước (biến tấu của bánh Mẹ Trăm Con), có kèm theo các sự tích về Lang Liêu và Âu Cơ, giúp học sinh am hiểu văn hóa, cũng như sẽ tạo thích thú hơn cho người dạy cũng như người học?
Riêng việc giảng dạy Văn hóa truyền thống Việt Nam qua Cổ tích và Ca dao cùng sự ác hại của Cộng sản thì hầu như không hề có, y như dưới thời Việt Nam Cộng Hòa?! Hậu quả là ngay thế hệ trẻ thứ 3 đã có những quan niệm biểu hiện sự mất gốc, kể cả việc không ít giới trẻ vô tư lự, theo Việt Cộng, ca ngợi Việt Cộng... chỉ vì chưa từng được ai chỉ dạy Việt Cộng bản chất ra sao, bán nước buôn dân và gian trá ác độc như thế nào...
Do vậy chúng tôi đã cố gắng soạn thảo các cuốn Khởi thảo Kinh Thư Việt Nam I (Lý giải một số Cổ tích), II (Thời kỳ Đối đầu Bắc phương), III (Thời kỳ Đối đầu Tây phương và Cộng sản) - có trích dẫn nhiều nhận định khác nhau , Khởi thảo Kinh Thi Việt Nam (Lý giải Ca dao), Phác thảo Văn học Việt Nam - Hậu bán Thế kỷ XX (tiếp nối các sách của Dương Quảng Hàm, Hà Như Chi, Phạm Thế Ngũ), Văn học Việt Nam - Tân khảo luận (nhận định mới về 40 tác giả & tác phẩm từ Thế kỷ XI đến XXI, dùng cho Thế kỷ XXI), Bản sắc Văn Hóa Việt Nam qua đời sống Tinh thần và Vật chất... (tất cả đã hoàn thành, xuất bản và phổ biến trên internet để xin ý kiến của Độc Giả giúp hoàn chỉnh hơn ...) nêu một số tinh hoa của Văn Hoá, Văn Học, Sử Học Việt Nam, mà trước đây chưa mấy ai khai triển có hệ thống, phân tích các nội dung uyên áo tiềm tàng... mong giúp các nhà giáo tâm huyết có tư liệu nghiên cứu phổ biến, lồng vào các vấn đề phổ thông khi giảng dạy.
d/ Các tổ chức Cộng đồng:
Ở những nơi tập trung được khoảng vài ngàn người Việt tỵ nạn, thường lập ra các tổ chức Cộng đồng Người Việt Tự Do hoặc Người Việt Tỵ Nạn, nhằm kết hợp thực hiện một số sinh hoạt chung về xã hội, văn hóa... nhưng nổi bật vẫn là về chính trị với chủ trương cực lực chống Cộng sản.
Lẽ ra các vị tốt nghiệp trường Quốc Gia Hành Chánh và Chiến Tranh Chính Trị hiện diện ở các nơi nên tích cực dấn thân đảm nhận vai trò tổ chức quản lý, điều hành, cố vấn... thì hầu hết lại để cho các cựu quân nhân các binh chủng chiến đấu yếu về khả năng ''Văn hoá & Chính trị'' điều hành, hoặc một vài tổ chức đấu tranh kém ý thức tìm cách giành quyền, biến một số đáng kể tổ chức Cộng Đồng thành nơi sinh hoạt riêng tư, với các cung cách thiếu văn hóa chẳng tốt lành, chia rẽ làm suy yếu dần dần sức mạnh của người Việt ở hải ngoại, đến độ người có học và có chút đạo đức đều phải xa lánh; biến dần nhiều tổ chức Cộng Đồng ở một số nơi đáng kể thành chỗ bè cánh chia rẽ tranh chấp quyền hành của những kẻ không ra gì - trái ngược với trình độ học thức phát triển tột bực của các thế hệ già trẻ ở hải ngoại, nên không còn thu hút được bao nhiêu giới già trẻ tài đức tham gia cống hiến, tiếp nối phát triển xây dựng ngày càng thăng hoa tốt đẹp hơn?!
Nhất là bao năm qua Cộng đồng Việt Tỵ Nạn đã không thể đồng tâm hiệp lực giúp nhau trong việc hội nhập sâu rộng, qua ứng cử và bầu cử tham gia nhiều vào các cơ cấu chính trị của nước tạm dung, hầu tạo thêm nhiều sức mạnh hữu ích cho cộng đồng, cũng như cho cuộc đấu tranh quang phục quê hương.
**
Trải qua hơn 40 năm, thành phần chống cộng ở hải ngoại đã không tạo được sức mạnh về chính trị lẽ ra phải có, trong khi người Việt hải ngoại rất thành công về các phương diện giáo dục, kinh tế, tài chính... hình thành một cộng đồng giàu chất xám và tiền bạc, được các nước cho tạm dung kính nể.
Lý do chủ yếu là không ít các thành phần lãnh đạo tôn giáo cầu an thủ lợi, ngày càng bị Cộng sản tìm cách mua chuộc tha hóa, xa rời việc đấu tranh giúp quốc gia & dân tộc; trong khi các tổ chức đấu tranh vẫn cằn cỗi với đường lối chống cộng lỗi thời không hựu hiệu - từng làm mất nước về tay Cộng sản.
Điều nguy hại là thế hệ thứ nhất và thế hệ thứ hai đã không đủ khả năng và sự sáng suốt, thay đổi tư duy cứu quốc, truyền lại cho kẻ đi sau những căn bản giá trị truyền thống Rồng Tiên về văn hóa tư tưởng, vô hình chung trực tiếp tạo ra sự tha hóa & mất gốc rất đáng tủi hổ - khi nhiều bậc cha mẹ có thể lấy làm hãnh diện về sự thành công học vấn, tài chính... của bản thân và con cháu, mà ít động tâm buồn bã về sự vong quốc và mất đi các truyền thống ngôn ngữ & văn hóa bao đời?!
2/ Phản ứng của thành phần muốn hòa giải:
a/ Các tôn giáo:
Rất buồn khi phải liệt tôn giáo vào thành phần này, vì hầu hết các nhà lãnh đạo tôn giáo ở hải ngoại bấy nay vẫn đặt nặng vấn đề xây cất các nơi thờ phượng, rao giảng các giáo lý hơn là đề cập tới vấn đề Quốc phá & Gia vong - lý giải sự vô thần của Cộng sản - dù rằng Cộng sản đàn áp các tôn giáo ngoài quốc doanh rất bi thảm - dù rằng nếu đánh tan được Cộng sản, các tôn giáo trong và ngoài nước sẽ có hoàn cảnh hoạt động chính đáng tốt đẹp hơn rất nhiều?!
Ngay vấn đề thành lập Đền Thờ Quốc Tổ, cũng ít được các vị lãnh đạo tôn giáo tích cực tham gia, thậm chí còn sợ chuyện xây Đền Quốc Tổ sẽ cạnh tranh, làm giảm đi sự tin tưởng và sự quyên góp tiền bạc của các tín đồ cho các tôn giáo?!
Việc khá nhiều tu sĩ từ trong nước ra các nơi thờ phượng ở hải ngoại giảng đạo quyên góp, cũng như việc rất nhiều tu sĩ ở hải ngoại ung dung về nước làm đủ thứ chuyện, cho thấy phần lớn các thành phần lãnh đạo tôn giáo đã hòa giải & hòa hợp theo chiều hướng rất đáng buồn?!
Sự kiện Tòa Thánh Vatican coi nhẹ Cộng sản bắt bớ đàn áp các vị linh mục đòi hỏi quyền lợi chân chính theo Hiến chương Liên Hiệp Quốc, vẫn tìm cách bang giao với Cộng sản các nước, cho thấy giữa tôn giáo ngoại lai và sự hưng vong của Quốc gia & Dân tộc đã và đang gây ra những nguy hại ra sao?!
Ngày 17-2-2009, Thứ trưởng Ngoại giao Parolin của Tòa Thánh Vatican khẳng định với nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam khi tới Hà Nội: 'Chính sách của Tòa Thánh là tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt Nam, trong đó các hoạt động tôn giáo của Giáo hội hoàn toàn không vì mục đích chính trị... Giáo lý của Giáo hội kêu gọi tín đồ phải là công dân tốt, phấn đấu vì lợi ích chung của đất nước'.
Qua tuyên bố trên, chúng ta thấy Thứ trưởng Parolin đã tự mâu thuẫn rất tai hại, khi muốn tín đồ 'phải là công dân tốt, phấn đấu vì lợi ích chung của đất nước' - nhưng lại 'tôn trọng chủ quyền' của một chế độ đàn áp tôn giáo, hại dân hại nước bao năm qua?!
Ngày 27-6-2009, Giáo hoàng Benedict 16 trong cuộc gặp gỡ 29 vị linh mục từ Việt Nam qua, còn nói: 'Các tôn giáo không phải là một nguy hiểm cho tinh thần đoàn kết quốc gia, vì các tôn giáo nhằm giúp mỗi người tự thánh hóa, và qua các tổ chức của mình, các tôn giáo mong muốn quảng đại phục vụ tha nhân một cách vô vị lợi', nên 'Giữa Vatican và Việt Nam có thể có quan hệ hợp tác lành mạnh' - Nói như vậy là Giáo hoàng Benedict 16 đã tự mâu thuẫn tệ hại hơn nữa, khi quan niệm 'Tôn giáo giúp con người tự thánh hóa' như Linh mục Nguyễn Văn Lý... thì làm sao mà có thể 'hợp tác lành mạnh' với bọn qủy đỏ đàn áp giam giữ bất cứ ai muốn thực thi tôn giáo một cách trong sáng lành mạnh?!
Khi một thành phần tôn giáo yêu nước đã bị bề trên ngó lơ, thỏa hiệp với kẻ thù chung của dân tộc tìm cách cô lập chế ngự, sức đấu tranh quang phục quốc gia bị tê liệt đáng kể cũng là điều dễ hiểu?!
Tưởng cũng nên biết rằng từ xa xưa Tam Giáo Nho - Lão - Phật vào Việt Nam đã bị bản địa hóa, nên các tu sĩ luôn đặt Tôn Giáo và Quốc Gia ngang bằng nhau để tận tụy phục vụ cả hai. Do vậy mà từ thời Đinh, Lê, Lý, Trần các tu sĩ đã ra nhận các chức vụ của triều đình, mang sở học giúp triều đình trị quốc, đối đáp với các sứ giả của Tàu, lưu lại nhiều thơ văn có giá trị... cho thấy sự bản địa hóa tôn giáo của Người Việt đã giúp các tu sĩ và tín đồ không có lỗi với dân với nước, mà còn trở thành những nhà ái quốc thương dân đáng kính trong lòng dân nước.
b/ Các đảng phái:
Chỉ sau vài chục năm, ở hải ngoại đã diễn ra sự đổ vỡ chia lià của nhiều tổ chức đấu tranh chính trị hàng đầu, vì những lý do được tuyên bố công khai như:
-Phe Kiên định lập trường chống phe không Kiên định lập trường trong tổ chức Liên Minh Dân Chủ.
-Phe Đúng hướng của Bác sĩ Trần Xuân Ninh tách khỏi phe Chệch hướng trong tổ chức Kháng Chiến, khi đổi thành Việt Tân.
...
Trong sách ''Những ưu tư về Việt Tân chệch hướng'', nơi trang 37, Bác sĩ Trần Xuân Ninh nhận định:
'Cho nên về căn bản, đường lối mới là chệch hướng, vì đặt trên một nền khác, nên có thể làm việc với hay dưới chế độ VC để canh tân đất nước'.
Đây là một hành động can trường rất đáng để các nhà đấu tranh suy nghĩ, vì đã mấy ai làm được như Bác sĩ Trần Xuân Ninh? Chỉ cần các đảng viên đảng CSVN dám từ bỏ đảng này khi thấy các chủ trương và lãnh đạo đi vào chỗ sai trái, cũng đủ giúp Quốc gia & Dân tộc thoát khỏi bao cảnh lầm than?
...
Đó là chưa kể vài tổ chức xuất hiện với chiêu bài 'Hòa giải - Hòa hợp', vẫn kiên định với chủ trương khi Cộng sản không thèm lý tới!!! Mấy tổ chức này không chịu hiểu rằng kẻ mạnh chẳng bao giờ hòa hợp một cách bình đẳng với kẻ yếu, muốn hòa hợp trước tiên cần tự tạo được sức mạnh tương đương mới có thể nói chuyện, và nói chuyện một cách ngang hàng. Còn chỉ một mực nêu lên các lý lẽ phải trái với một bọn lãnh đạo dốt nát vô luân ngoan cố như Bộ Chính trị của Cộng sản bấy nay, nào khác gì nước đổ đầu vịt, đàn gẩy tai trâu?! Thực tế bao năm qua cho thấy công Dã Tràng của những ai muốn hòa giải & hòa hợp, mà không chịu lệ thuộc luồn cúi?!
Đáng kể chỉ còn vài tổ chức yêu nước đấu tranh khảng khái, biết vận dụng liên kết trong và ngoài nước, với sự vận động hỗ trợ hậu thuẫn của các chính trị gia quốc tế, như Phong trào Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất của Hòa thượng Quảng Độ, Khối 8406 của Linh mục Nguyễn văn Lý, Cao trào Nhân Bản của hai anh em bác sĩ Nguyễn Quốc Quân và Nguyễn Đan Quế...
3/ Phản ứng của đa số thầm lặng:
Nhìn vào các cuộc họp chính trị bình thường ở các cộng đồng hải ngoại, chỉ có trung bình sự hiện diện của 100 người đã được coi là đông, trong khi số người Việt ở những nơi được tổ chức này thường là 100.000 người... như vậy thành phần tham gia các hoạt động chỉ khoảng 1/1.000.
Con số trên nếu có sai số tới 1% thì số người thầm lặng không tham gia các sinh hoạt chính trị bình thường cũng là 99% - một con số quá lớn.
Chẳng những về số lượng, mà về chất lượng của những người vắng mặt càng khiến ai quan tâm cũng phải hoảng sợ?!
Nếu ai có mặt ngay từ những buổi ban đầu ở hải ngoại, sẽ thấy các buổi hội họp sinh hoạt của cộng đồng ngày càng vắng vẻ, và thưa thớt các khuôn mặt đáng kính?!
Lý do dễ thấy, là vì các nhân vật đấu tranh hàng đầu kém ưu thời mẫn thế, đưa ra các chủ trương không còn hợp với thời thế & tình hình đang diễn ra, nên chẳng thể hấp dẫn lôi cuốn những người có đầu óc nhìn xa trông rộng, thành tâm và thiện chí?
Do vậy muốn đánh động tâm thức của đại đa số thầm lặng, cần có những tư duy và hành động mới mẻ, thấm đượm lý tình, mà chúng tôi chỉ dám nêu vài gợi ý thô thiển trong phần Nhận Định Chung cuối bài này, rất mong được sự đóng góp ý kiến của mọi người.
4/ Nhận diện bọn Nằm Vùng:
Ngay khi thấy số người Việt bỏ ra nước ngoài quá nhiều hình thành một sức mạnh lớn lao, Cộng sản Việt Nam đã phải mau chóng tổ chức một mạng lưới tình báo, phát triển dầy đặc ở hải ngoại bằng các sự mua chuộc hoặc đe dọa những người từng chống chúng nhưng vô tâm nhẹ dạ, để thu thập tin tức và đưa ra các biện pháp đánh phá, chế ngự, hóa giải các mũi nhọn đối kháng.
Nơi đây chúng tôi chỉ xin lược thuật lại một số người và việc, mà chính bản thân chúng tôi là nhân chứng:
**Chuyện Đồng Tử Quân:
Trong một chuyến xe lửa từ Nam ra Bắc tại Việt Nam, nhân dịp Tết vào đầu Thập Niên 1980, tại một toa có giường nằm, tôi thấy có một nhóm trai trẻ, tuổi khoảng 20, chiếm trọn 4 khoang mỗi khoang 4 giường nằm, sát cạnh khoang tôi nằm.
Do khó ngủ, nên buổi tối tôi thường ra đầu toa, ngồi tư lự nhìm ngắm cảnh quê hương bên đường tàu chạy qua, chìm đắm dưới ánh trăng hạ tuần.
Một người trong nhóm trai trẻ của mấy khoang giường nằm bên cạnh, cũng ra ngồi bên tôi, châm thuốc lá hút. Chúng tôi lân la nói chuyện bâng quơ với nhau về thời tiết, rồi tôi tò mò hỏi:
-Nghe em nói tiếng Miền Nam, vậy tết nhất đến nơi còn ra Bắc làm gì vậy?
Người trẻ tuổi ngần ngừ rồi cho biết:
-Tụi em đang học ở đại học Cần Thơ, nay được tuyển đưa ra Bắc học, rồi sẽ ra nước ngoài hoạt động.
Với chế độ đa nghi của bọn Việt Cộng, mà tuyển giới trẻ huấn luyện đưa ra nước ngoài, khiến tôi nghĩ ngay đến chuyện gián điệp tình báo, nên tò mò hỏi:
-Chắc Nhà nước thấy thiếu nhiều chuyên viên khoa học kỹ thuật, nên mới đưa các em đi học? Vậy em đang học về ngành khoa học kỹ thuật nào?
Người trẻ tuổi nói nhỏ hơn, như sợ ai nghe thấy:
-Chúng em qua Tiệp học về tình báo, rồi qua các nước tư bản hoạt động.
Thấy nói vậy, tôi vội lảng ngay sang chuyện khác.
Bẵng đi vào năm 1984 khi qua được Úc, tôi đã kể câu chuyện này với anh Nguyễn Thượng Hiệp đang làm báo ở Mỹ, và anh viết thành tin nóng gây dư luận rất sôi nổi.
Năm 1987 khi tôi qua Mỹ làm báo Thời Luận với anh Đỗ Tiến Đức thì ngay ngày đầu ở tòa soạn, anh Đức nói ông Chử Bá Anh muốn nói chuyện qua điện thoại với tôi. Qua điện thoại, ông Anh căn vặn như kiểu điều tra về cái tin 'Đồng Tử Quân' của VC do tôi tung ra nước ngoài từ mấy năm trước. Nên sau đó tôi không lấy gì làm ngạc nhiên khi ông Anh cùng 1 nữ ký giả phổ biến tin xuyên tạc về phiên tòa xử Lý Tống ở Việt Nam.
Điều khiến tôi ngạc nhiên là các báo Việt ở nước ngoài lúc đó ngây thơ, đến mức không cần hiểu do đâu mà nữ ký giả kia có thể về Việt Nam tham dự phiên tòa của VC? Chỉ đến khi nữ ký giả này lộ diện là người của Việt Cộng, và ông Lý Tống ra được nước ngoài nói rõ sự tình, ai nấy mới chưng hửng, rất ư là ngây thơ vô số tội?!
**Chuyện báo chí trong đấu tranh:
Hồi đầu thập niên 1980, khi còn ở trong nước, do biết tôi từng di cư một mình, tết hàng năm ra Hà Nội thăm lại gia đình, tôi được Bác sĩ Nguyễn Đan Quế sáng lập Cao trào Nhân Bản, nhờ ra Hà Nội liên hệ với một số nhân vật trong nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm, để liên kết hoạt động. Bác sĩ Quế cũng như một số vị mà tôi được gặp ở Hà Nội lúc đó như các ông Văn Cao, Hoàng Công Khanh... đều cho rằng báo chí là lợi khí đấu tranh hơn cả súng đạn, nên cần thực hiện đấu tranh qua báo chí thời hậu chiến.
Điều này từng được nhiều danh ngôn nói đến, như:
-'Nhà báo chính trị là người khơi lên ngọn lửa dư luận, và nhiều khi chính họ bị cháy tay'
(Pierre Nara)
-'Một ngày không có báo như một ngày vắng mặt trời, nhưng đôi khi người ta sợ nắng gắt'
(Guy De Maupassant)
-'Làm báo nghiêm chỉnh hay dân dã, điều đó không quan trọng. Chỉ có báo được lòng dân hay không được lòng dân'
(Kelvin Mc. Kenzie)
Cuối năm 1984 khi tôi rời Việt Nam, tôi được một vị thân tình ở Hà Nội tin tưởng tặng cuốn 'Lê - Nin nói về sách báo' của nhà xuất bản Sách Giáo Khoa Mác & Lê - Nin, Hà Nội 1984, để có thể nghiên cứu tìm hiểu về báo chí, nếu muốn hoạt động đấu tranh qua báo chí ở hải ngoại.
Tôi xin được trích dẫn một số câu của Lê - Nin trong sách này, để thấy Cộng sản đã coi trọng báo chí ra sao, nghĩ về việc làm báo như thế nào, và do đâu bọn Cộng sản rất sợ báo chí, tìm cách mua chuộc không được là đánh phá:
-'Tờ báo phải trở thành một cơ quan chiến đấu'.
-'Đối với những người mua báo thuộc giai cấp tư sản, một tờ báo sở dĩ quan trọng là do chỗ nó bán được - không cần biết nó bán ở đâu, nó có đoàn kết được một giai cấp nào không và đó là giai cấp nào; thì đối với một người mác - xít và đối với một người dân chủ triệt để, một tờ báo sở dĩ quan trọng là do chỗ nó trở thành cơ quan giáo dục và đoàn kết các giai cấp thực sự tiên phong'.
-'Tờ báo phải là một tờ báo phổ thông theo ý nghiã là hàng triệu người đọc hiểu được nó, nhưng không phải vì thế mà rơi vào chỗ tầm thường sơ đẳng. Không hạ thấp xuống trình độ của độc giả dốt nát, mà là không ngừng nâng cao trình độ của họ lên từng bước và thận trọng. Chỉ dành một phần nhỏ cho chính trị, khoảng không quá 1/4...'
-'Chúng tôi muốn nói với người viết báo rằng: Phổ cập hóa rất khác với tầm thường hóa, với lối viết làm ra vẻ phổ cập. Nhà báo phổ cập dẫn người đọc đến những tư tưởng sâu sắc, đến các học thuyết sâu xa, xuất phát từ những tài liệu đơn giản nhất, phổ biến nhất, nhờ vài suy luận giản đơn hay những thí dụ được lựa chọn một cách thích đáng mà chỉ rõ những kết luận rút ra từ những tài liệu đó, dẫn dắt người đọc đang suy nghĩ đi đến những vấn đề sâu hơn và sâu hơn nữa'.
Trong cuốn 'Những tên gọi, bí danh, bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh' do VC ấn hành năm 2001, đã công bố 169 tên gọi, bí danh, bút danh của họ Hồ.
Riêng họ Hồ ký dưới 1.524 bài báo là 53 bút danh khác nhau như: Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn, Nguyễn A. Q., Ng.A.Q., XX, Ng. Ái Quốc, N.A.Q., N., Wang, N.K., A.N., Đ.C. Lin, P.C. Clin, P. Cline, Line, Q.T., Q. TH, A.G., X.Y.Z., G (A-La-Ba-Na, LT, Lê Nhân, T.L, Đin, Lê, Tân Trào, Đ.X, C.B, V.K, K.C, T, C.K, Trần Lực, Lê Nông, Chiến Sĩ, La Lập, Nói Thật, Chiến Đấu, T. Lan, Thu Giang, K.V, Tuyết Lan, PH.K.AI, Trần Lam, Luật sư TH.Lam, Lê Thanh Long, CH. Kopp (A-LA-BA-NA), Thanh Lan, Nguyễn Kim, C.S, K.O, Lê Ba, Việt Hồng.
Bằng các bút danh trên, Hồ Chí Minh đã đóng nhiều vai trò khác nhau để tuyên truyền bịp bợm, tạo ra những luồng dư luận khác nhau, biến các đồ đệ nhẹ dạ cả tin thành cuồng tín, mà thành công nhưng bất thành nhân. Trong khi lãnh tụ Nguyễn Thái Học ngừng lại nơi chủ trương 'Không thành công, nhưng cũng thành nhân'.
Những tư liệu nêu trên cho thấy muốn kết hợp nhân tâm để có thể chung lưng đấu tranh cho chính nghiã, rất cần 1 tờ báo được nhiều người viết có ý thức đấu tranh cho mẫu số chung là Quốc gia & Dân tộc. Vì bọn Cộng sản không có chính nghiã, thiếu người viết khả năng, nên họ Hồ mới phải thiên biến vạn hóa qua nhiều bút hiệu nam nữ tuổi tác giai cấp khác hẳn nhau, trong việc làm báo tuyên truyền thu phục nhân tâm.
Và khi thành công, việc làm đầu tiên của họ Hồ cũng là thẳng tay sát phạt hoặc vô hiệu hóa các người viết tài đức có khả năng thuyết phục khi nêu chính kiến, như Phạm Quỳnh, Khái Hưng hồi 1945; Phan Khôi, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Hữu Đang, nhóm Nhân Văn Giai Phẩm hồi 1956; các văn nghệ sĩ Miền Nam năm 1975.
Ở hải ngoại, những người viết có tài nhưng kém đức thường bị mua chuộc làm bồi bút, đánh phá lung tung những ai không thể mua chuộc.
Bản thân chúng tôi, tuy chỉ làm chủ một tờ báo bé nhỏ ở một tiểu bang xứ Úc xa xôi, nhưng cũng 3 lần bị mua chuộc bằng những khoản tiền lớn bằng nửa tiền mua một căn nhà khang trang đương thời, 2 lần bị đưa người vào nằm vùng đánh phá.
Lần thứ nhất ông Chủ bút nằm vùng lấy hết bài vở một ngày trước khi đem in.
Lần thứ hai cậu Tổng thư ký nằm vùng lấy trộm hết computer và các dụng cụ làm báo như máy in, máy fax.
Cả 2 lần đều có điện thoại ra điều kiện phải chịu khuất phục, tuân theo các chỉ đạo.
Do được mấy vị trong nhóm Nhân Văn Miền Bắc chỉ dẫn cách đề phòng khi muốn đấu tranh chống Cộng, nên lúc nào chúng tôi cũng phải làm thêm 1 phó bản, mới thoát khỏi các phá hoại ngay từ trong nội bộ; chưa kể hàng chục năm bị cô lập bao vây, tung dư luận vu cáo đánh phá từ chính một số tổ chức cộng đồng và đấu tranh chính trị, bị bọn nằm vùng xâm nhập khống chế một thời.
Điều chúng tôi muốn nói ở đây, là sở dĩ Người Việt Quốc Gia bấy nay không thể kết hợp đấu tranh, là do ngay cả không ít những người viết báo nổi tiếng vẫn chưa đủ ý thức làm báo, vì không được đào luyện bài bản, không có ý thức chung khi viết, thường tự viết theo ý của mình mà coi nhẹ các thay đổi chung quanh - chẳng khác gì cảnh tự vái mình như một câu chuyện hài nói về nhóm Sáng Tạo hồi thập niên 1950?!
Một cuộc diễn thuyết tụ tập được vài trăm thính giả đã được kể là một thành công lớn; nhưng một tờ báo mà chỉ có vài trăm độc giả rất khó mà tồn tại, nếu không có sự 'bao cấp'?
Thế nhưng bấy nay các tổ chức đấu tranh Quốc Gia vẫn coi nhẹ báo chí khi hoạt động, không hề có các bài phỏng vấn sâu sắc ''mở hàng'' trước khi diễn thuyết, các bài tường thuật bén nhọn sau khi diễn thuyết... nên đã hạn hẹp không gian hoạt động một cách phí phạm rất đáng tiếc?!
Chúng ta không thể coi thường thủ đoạn của Cộng sản Việt Nam hiện nay, khi chúng không từ nan bất cứ điều xấu xa bỉ ổi nào để có thể tồn tại, qua chủ trương
'Thà mất nước còn hơn mất đảng'.
Cộng sản tại Việt Nam ngay từ thời Hồ Chí Minh cầm quyền đã dâng đất, dâng biển đảo cho Trung Cộng để đổi lấy vũ khí và sự hỗ trợ để tiến đánh Miền Bắc và Nam.
Vào năm 2010 họ lại lập được bang giao với Tòa thánh Vatican, để không bị sức mạnh của Thiên Chúa Giáo Quốc Tế gây khó khăn, như trong các vụ biểu tình đòi đất của giáo dân ở Thái Hà và Tòa Khâm sứ Hà Nội. Và mới nhất là vụ Nhà thờ Tam Tòa tại Đồng Hới vào tháng 7-2009, vụ Giáo xứ Đồng Chiêm đầu năm 2010, vụ đẩy Đức Tổng Giám mục Hà Nội Ngô Quang Kiệt ra nước ngoài giữa năm 2010...
Trước những ý đồ trên, chúng ta cần tỉnh táo sáng suốt hơn bao giờ hết, kết hợp với các nhà đấu tranh tôn giáo chân chính để phát huy sức mạnh, thay vì chia rẽ rơi vào cạm bẫy của Cộng sản.
Lời của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ 'Trước khi là linh mục, tôi là người Việt Nam' cùng nhiều bài phát biểu của không ít các vị Linh mục và Hòa thượng yêu nước, đang gian khổ đấu tranh trong nước như Linh mục Nguyễn Văn Lý, Linh mục Nguyễn Hữu Giải, Hòa thượng Quảng Độ... khiến chúng ta vững tâm bền chí sát cánh bên nhau trong cuộc đấu tranh quang phục quê hương, một mất một còn với bọn Cộng sản Việt Nam gian ác đê hèn nhất trong lịch sử dân tộc.
Chúng tôi chỉ xin mạo muội nêu một số giải pháp, với sự phân tích & tổng hợp như sau đây:
1/ Giải pháp Văn hóa:
Hơn bao giờ hết, vấn đề Văn hóa & Tư tưởng cần được coi là nền tảng và trọng tâm của cuộc đấu tranh Ý Thức Hệ hiện nay, khi Cộng sản đã tìm cách hóa giải phần nào yếu điểm của họ, bằng cách thỏa hiệp để quản lý chế ngự một phần sức mạnh tư tưởng, qua tôn giáo.
Hơn 40 năm qua, các tổ chức đấu tranh hầu như chỉ chú trọng đấu tranh chính trị, lãng quên đấu tranh văn hóa, nên đã gây ra không ít tình huống chính trị vô văn hóa!
Ở mức thấp, chính trị vô văn hóa đã tạo ra trình độ thấp kém về ngôn ngữ, hành động, thể hiện qua những màn đấu đá chửi bới nhau rất đầu đường xó chợ của không ít các tổ chức đấu tranh chính trị, tôn giáo... trên internet, trên báo chí, trên các đài phát thanh, đài truyền hình; đấu khẩu trực tiếp trên các diễn đàn...
Ở mức cao, chính trị vô văn hóa khiến tư duy hạn hẹp, trở nên độc tôn, không chấp nhận các khác biệt - trong khi biển học mênh mông, sự đúng sai luôn bị giới hạn vào những khoảng thời gian và không gian nhất định.
Tưởng cũng nên phân biệt 2 nền triết học khác nhau:
-Triết học của các Tôn giáo thường dựa trên nền tảng tình cảm qua sự yêu ghét.
-Triết học Chính thống dựa trên nền tảng lý trí qua sự đúng sai.
Từ hai nền tảng khác nhau nên có quan điểm về sự đúng sai, tốt xấu khác nhau rất đáng kể?
Do vậy Văn Hóa Chính Trị là ý thức cao, cần bình tâm trân trọng 'nói nhau nghe - nghe nhau nói' để có thể nhận biết những cảm quan và tư duy từ nhiều phiá khác hẳn nhau, hầu soi sáng vấn đề, từ bỏ các khung cửa hẹp, mở rộng cảm quan ra những khoảng không gian và thời gian bao la hơn, mới có thể chấp nhận phản biện & liên kết với các tư duy khác biệt.
Những vấn đề lớn giống như một pho tượng khổng lồ, mà tùy theo vị trí mỗi người chỉ có thể nhìn thấy phiá trước hoặc phiá sau, bên trái hoặc bên phải... nên rất cần có được nhiều cái nhìn khác nhau soi sáng khi nghiên cứu tìm hiểu.
Vì thế mà tranh luận không hề nhằm mục đích bắt người khác phải đồng ý với mình, mà chỉ nhằm mở rộng vấn đề qua các góc nhìn soi rọi chính đáng khác nhau.
Câu chuyện thầy bói rờ voi, cho thấy ai cũng đúng, nhưng chỉ đúng ở phần mình thấy được mà thôi - Điều này khác hẳn tư duy cho rằng ai cũng sai, mà dẫn đến tranh cãi vô bổ?!
Đây chính là nguyên do khiến các nhà lãnh đạo bấy nay chia rẽ, không thể kết hợp, vì ai cũng thấy mình đúng, mà không chịu hiểu rằng cái đúng của mình chỉ giới hạn trong một khoảng không gian hạn hẹp, và một khoảnh khắc thời gian nào đó mình hiện diện mà thôi.
**
Chỉ khi nào có ý thức cao về Văn hóa Tư tưởng, hiểu được tự do dân chủ quan yếu là phải có ý thức tôn trọng cả sự tự do & dân chủ chính đáng của người khác, chấp nhận 'nghe nhau nói - nói nhau nghe' một cách bình đẳng và thân thương, mới có thể thực hiện việc đấu tranh tư tưởng chính trị ở trình độ văn hóa cao, theo chiều hướng thăng hoa.
Nhìn lại quá trình hình thành và phát triển tư tưởng triết học của nhân loại, mà chính trị học chỉ là một phần của triết học, chúng ta sẽ thấy nền văn hóa cổ truyền Rồng Tiên của Việt Nam đã sớm hình thành một truyền thống bình đẳng nam nữ & tự do dân chủ cao đẹp, định hình được một nền văn hiến lâu đời sán lạn, trước các tôn giáo Đông Tây và tư tưởng tự do dân chủ của Âu Mỹ nhiều ngàn năm, mà vẫn bao hàm và vượt lên những ý tưởng cao xa của các tôn giáo Đông Tây, và các lý thuyết chính trị Âu Mỹ xuất hiện về sau này.
Cụ thế Phật Giáo đề cao Bi - Trí - Dũng, Nho Giáo đề cao Nhân - Trí - Dũng... nhằm đề cao cái Dũng - chỉ là đức tính cần nhưng chưa đủ để hoàn thiện nhân tính tốt vị tha của cá nhân, khi chung lo quốc gia đại sự.
Trong khi Lòng Nhân của Tiên Âu Cơ qua Nghiã Đồng Bào + Ý thức Trí Sáng về hành động của Rồng Lạc Long Quân qua tâm trí Tri Hành Đồng Nhất cùng dấn thân theo con xuống vùng biển mở nước & dặn con cháu phải lấy hiệu là Hùng, tuân thủ suốt 2.000 năm dựng nước với nhiều sự tích và cổ tích văn hóa yêu nước cao thâm, tạo thành tâm thức mấy ngàn năm Văn hiến, cho thấy vấn đề xây dựng nhân cách của tiền nhân Việt không chỉ dừng lại ở chữ Dũng, mà phải đạt đến chữ Hùng - tức là ngoài việc tao luyện Dũng Khí cho bản thân (Phú qúy bất năng dâm - Bần tiện bất năng di - Uy vũ bất năng khuất...), còn cần Hùng Tâm kèm Dũng Khí dám dấn thân quên mình, theo đuổi việc quốc gia đại sự.
Như vậy Hùng Tâm không hề mâu thuẫn với Dũng Khí, mà bao trùm lên Dũng Khí, đòi hỏi kẻ Dũng Khí phải có thêm Tâm Lớn + Trí Cao khi dấn thân làm đại sự, giúp nước Thành Công sau khi đã Thành Nhân, mới được Tổ Quốc Ghi Công. Ở đây chúng tôi cũng xin nói rõ là chúng ta mang ơn Tổ Quốc, nên phải báo đáp để được Tổ Quốc ghi công trạng, chứ không có chuyện Tổ Quốc phải ghi ơn chúng ta?
Hiểu như vậy, chúng ta sẽ thấy văn hóa Rồng Tiên đặt 'Tổ Quốc Trên Hết', phải có Hùng Tâm truyền thống kết hợp với Dũng Khí của các tôn giáo khi phục vụ, bao hàm, mà không hề phân biệt Bi - Trí - Dũng hoặc Nhân - Trí - Dũng...
Nói khác đi, tình cảm yêu nước chân chính sẽ đặt Tổ Quốc Trên Hết, coi Tổ Quốc là mẫu số chung khi phát triển tôn giáo và đảng phái, cùng các Giá trị Nhân Văn... mới không mất gốc và bị chia rẽ. Vì chỉ khi dân giàu & nước mạnh, mọi sinh hoạt tôn giáo và chính trị mới có thể thăng hoa và phồn vinh. Cộng sản Việt Nam đã vô cùng lưu manh, khi nhập nhằng đề cao cái Tổ Quốc XHCN theo kiểu Cộng sản, mưu toan chôn lấp Tổ Quốc Việt Nam có từ bao ngàn năm.
Về điểm này, chúng ta thấy hầu hết kẻ có học Việt Nam xưa nay, chỉ dừng lại ở trình độ 'học thức', do chỉ có được những 'kiến thức chuyên môn' trong phạm vi học hỏi của mình - Ít ai đạt tới cảnh giới 'trí thức'?!
Vì một người 'trí thức' phải biết nhận ra các lẽ thiệt hơn một cách cao đẹp, khi dấn thân. Tối thiểu cũng phải hiểu mẫu số chung của mọi sự kiện là 'Quốc Gia & Dân Tộc' - chứ không hề là Tôn giáo, Đảng phái, Tổ chức.
Do vậy Chính trị có Văn hóa luôn lấy Quốc Gia & Dân Tộc làm nền tảng để đấu tranh, dựa trên những gì lợi hay hại đối với Quốc Gia & Dân Tộc để minh định lập trường và đưa ra các kế hoạch hành động.
2/ Giải pháp Giáo dục:
Thời các vua Hùng, người Việt đã có nền Văn hóa Tư tưởng 'Nhân + Trí = Hùng', được được phát triển, lưu giữ truyền đạt qua các cổ tích, ca dao, tục ngữ, hình thành một nền Văn hiến (tức có những nét chung lớn, tốt đẹp) qua phương pháp truyền khẩu uyên thâm, tới trình độ 'Đạo khả đạo phi thường đạo' mà sau này Lão Giáo và Tân Giáo dục Tây phương mới có thể ý thức đề cao xưng tụng.
Kể từ khi người Tàu từ miền bắc tràn xuống xâm lược cai trị nhiều lần, dùng chữ Hán truyền bá tư tưởng Tam Giáo qua việc thi cử, ghi chép... đã tạo nên một lớp học thức - chứ không hề là trí thức như bấy nay lớp người này vẫn huyễn tưởng, tự xưng tụng - đẩy lùi nền văn hóa tư tưởng cổ truyền 'Nhân + Trí = Hùng' của Việt Nam ra khỏi các thành thị, lúc bị lớp quan lại sai nha 'bầy tôi' này quản lý.
Nhưng người Việt chân chính vẫn tìm cách duy trì được nền văn hóa tư tưởng Anh Hùng cổ truyền của mình trong các thôn làng, qua việc thờ phượng Địa Linh & Nhân Kiệt.
Do lớp học thức phải khổ công học hành văn hóa ngoại lai trong việc thi cử để tiến thân, triệt để áp dụng khi ra làm việc để vinh thân, nên họ đã bị tha hóa, không còn nhớ gì về cội nguồn văn hóa cổ truyền cao đẹp của mình, đến độ coi các tư tưởng ngoại lai là chính, mà hỗn hào khi cho rằng 'nôm na là cha mách qué' - lúc bị người bình dân diễu cợt chê cười.
Khi nghiên cứu về các Cổ tích và Ca dao, chúng tôi thấy nội dung của hai hình thức văn xuôi và văn vần này uyên áo, có tác dụng giáo dục sắc bén hơn hẳn Kinh Thư và Kinh Thi của Trung Quốc. Vậy mà mấy ngàn năm qua bị giới học thức vong bản vùi dập, không đánh giá đúng mức để phục hồi, hầu phát huy trong việc giáo dục.
Đến Thế kỷ XX, khi chữ quốc ngữ phát triển, các Cổ tích Ca dao mới được nhắc nhở đến một cách thiếu tôn trọng trong nền văn học bị gọi là 'Văn Chương Bình Dân' - nhằm phân biệt với Văn Chương Bác Học là những thủ đắc từ các nền tư tưởng văn hóa ngoại lai; mà không hề nhận biết chính trong nền Văn Chương bị gọi là 'Bình Dân' lại uyên bác hơn!
Chúng tôi đã chứng minh được phần nào những sự uyên bác này trong sách Khởi thảo Kinh Thư Việt Nam, và trong cuốn Khởi thảo Kinh Thi Việt Nam tiếp theo.
Từng tham gia Nhóm Nghiên Cứu Quốc Văn, soạn thảo Chương trình Quốc văn lớp 12 đầu tiên của Việt Nam Cộng Hòa hồi trước 1975, chúng tôi nhận thấy muốn phát huy lòng yêu nước của người dân, cần giáo dục họ những giá trị cao đẹp của tư tưởng & tình cảm Việt Nam, đã được nêu lên rất uyên bác và phong phú trong Cổ tích và Ca daoViệt Nam.
Những Ca dao và Cổ tích của Việt Nam vô cùng uyên áo, nhưng lại dễ hiểu, dễ nhớ, nhiều bài có thể giảng giải theo nhiều trình độ khác nhau, từ lớp vỡ lòng đến bậc đại học.
Cụ thể như các bài ca dao 'Công cha như núi Thái Sơn', 'Trong đầm gì đẹp bằng sen' - các cổ tích Phù Đổng, An Tiêm, Từ Thức... mà chúng tôi phân tích trong sách Khởi thảo Kinh Thư và Khởi thảo Kinh Thi Việt Nam.
Lối giáo dục đề cao anh hùng tính của Việt Nam từ xa xưa, rất gần với lối giáo dục của các nước Âu - Mỹ - Úc, khi đòi hỏi người đi học ngay từ nhỏ đã phải tham gia tích cực vào các hoạt động công ích xã hội, vì dân vì nước.
Một khi nghiên cứu kỹ các Cổ tích, Ca dao Việt Nam sẽ thấy các điều ích quốc & lợi dân, không chấp nhận các chế độ đảng trị - khi các đảng luôn lấy lợi ích của đảng làm mục tiêu chính.
3/ Giải pháp Tuyên truyền:
Muốn tuyên truyền hữu hiệu, ngoài nội dung uyên bác thuyết phục còn cần đến ngôn ngữ chuyển tải dễ hiểu, minh bạch.
Khổng Tử khi muốn truyền bá tư tưởng, đã nêu rõ trước hết cần 'chính danh định phận' - tức là tùy người tùy việc mà gọi cho chính xác rõ ràng, để ai nấy có thể phân biệt chính tà, tốt xấu ngay lập tức khi nhắc nhở đến.
Ngay từ thời 1945, trong lúc Cộng sản Việt Nam rất coi trọng việc minh định cách gọi người và việc trong ngôn ngữ tuyên truyền của họ, thì người Việt Quốc Gia đến nay ở hải ngoại vẫn chưa ý thức được tầm quan trọng của vấn đề này.
Cụ thể, Cộng sản Việt Nam gọi miền nam là Ngụy quân, Ngụy quyền, vu cáo bôi bẩn rất đểu giả bao năm; trong khi sách báo của Người Việt Quốc Gia cho đến nay ở hải ngoại vẫn gọi họ là 'Chính quyền'?!
Một khi gọi họ là 'chính' thì có khác gì thừa nhận mình là 'bất chính' lúc chống lại?!
Một số ý kiến cho rằng 'chính quyền' chỉ là nắm giữ quyền về hành chính, nhưng ít ai hiểu theo nghiã này, khi chữ 'chính quyền' được dùng song song với các chữ 'ngụy quyền', 'bạo quyền', 'tà quyền'...
Với một chế độ tàn bạo như bọn Cộng sản, chúng ta có thể dùng chữ 'Bạo Quyền' để thống nhất cách gọi, sẽ khiến ai nấy có ngay ý thức về họ. Cũng như với bọn mạo nhận danh nghiã cao qúy 'Giải phóng Miền Nam' chúng ta cũng gọi y chang theo, lẽ ra nên vạch mặt ngay từ đầu, mà luôn gọi là 'Mặt trận Bù nhìn Miền Nam'. Gọi như vậy là cách 'chính danh định phận' khẳng định sự chính tà, tốt xấu, để ai nấy ngay lập tức có ý thức về họ.
Ngoài ra, cần thay chữ 'chính quyền' đối với các chế độ không tốt, bằng chữ 'nhà cầm quyền', để minh định rõ tốt xấu phân minh. Vì không thể nào gọi các chế độ bạo tàn như Phát xít, Cộng sản, Độc tài, Quân phiệt... bằng các chữ như 'chính thể', 'chính phủ', 'chính quyền'... mà chỉ nên gọi họ là 'nhà cầm quyền'.
Vấn đề tuyên truyền không gì mạnh bằng báo chí, truyền thanh, truyền hình... nhưng cho đến nay Người Việt Quốc Gia vẫn không chú trọng đặt nặng cũng như coi trọng các phương tiện này.
Lỗi ở nhiều phiá như:
-Người đọc không có ý thức tự trọng, khi vẫn chưa có các phản ứng mạnh mẽ chính đáng với những tờ báo lá cải, viết nhảm nhí, vu cáo bôi bẩn... coi thường người đọc.
-Người làm báo chưa đủ trình độ kiến thức và đạo đức nghề nghiệp thực hiện Đệ Tứ Quyền, là trách nhiệm hướng dẫn dư luận quần chúng đánh giá người và việc của 3 quyền Lập pháp - Tư pháp - Hành pháp!
Hầu hết coi việc làm báo như một nghề câu cơm, thay vì coi như một thiên chức cao cả - có trách nhiệm hướng dẫn dư luận quần chúng nhận định đúng người và việc?!
Muốn vận động tuyên truyền hữu hiệu trong cuộc chiến chống Cộng sản Việt Nam & quang phục quê hương hiện nay, trước hết người viết báo, làm báo, hơn ai hết phải biết tuân thủ những đòi hỏi căn bản về khả năng và đạo đức nghề nghiệp.
Bấy nay chỉ có duy nhất một nhà báo tốt nghiệp văn bằng tiến sĩ về báo chí, là nhà báo Từ Chung của báo Chính Luận sau 1954 ở Miền Nam. Và Cộng sản nhanh chóng ám sát ông Từ Chung, cho thấy các bài báo của nhân vật này đã khiến cho họ hoảng sợ ra sao?
So sánh một nhà báo và một nhà giáo, thì nhà báo đòi hỏi nhiều điều kiện cao hơn, vậy mà bấy nay đâu có bao nhiêu nhà báo được đào tạo từ các trường chuyên môn, hoặc chịu khó nghiên cứu sách vở để thăng tiến, nên không ít nhà báo bị chê 'nói láo ăn tiền' - viết nhảm nhí tục tĩu câu khách... quả là sự thật đáng trách và đáng buồn?!
Có tờ báo tự xưng là 'uy tín', mà dốt nát đến độ trong một vụ kiện tụng với một người viết nghiên cứu, đã tố cuốn sách nghiên cứu 'ăn cắp' nhiều đoạn từ nhiều cuốn sách khác nhau; chứng tỏ cả tòa soạn không ai có đủ trình độ để hiểu rằng khi viết về nghiên cứu thì phải trích dẫn các tư liệu, miễn là để rõ xuất xứ - hầu góp ý cản ngăn cái dốt của cả ban biên tập tờ báo lộ ra!
Ở Úc, từng có tờ báo mỗi tuần đăng một bài 'tham luận' ngắn ngủi nhiều năm, mà không hiểu đó chỉ là bài nêu vài ý kiến về một vụ việc có tính thời sự; còn 'luận' đòi hỏi nhiều lý lẽ biện bác thấu đáo khác nhau, 'tham luận' đòi hỏi sự 'tham bác + lý luận' sâu rộng công phu rất mực, về những vấn đề lớn, nên cần phải mất nhiều năm tháng tham bác mới có thể viết được một bài tham luận cho ra hồn... Còn bình thường chỉ nên gọi là xã luận, thời luận...
4/ Giải pháp Chính trị:
Đấu tranh chính trị ở trình độ cao không phải là chuyện đấu đá đối kháng chửi bới nhau, mà là phải có khả năng cao về Tâm và Trí để bao dung và thuyết phục nhau, đi tới hóa giải các mâu thuẫn, hầu có thể hòa hợp.
Vì đấu đá đi tới chém giết là việc của các nhà quân sự, chứ không hề là việc làm của các chính trị gia chân chính.
Người làm chính trị chân chính rất cần cái Tâm Lớn, để nghĩ đến việc lớn mà nhẫn nhịn chịu đựng các chuyện nhỏ nhoi yêu ghét thường tình. Nói khác đi, một khi đã một lòng vì nước vì dân, thì trước tiên phải quên những ràng buộc về đảng phái, tôn giáo... đặt Tổ Quốc lên trên hết. Dĩ nhiên không phải là thứ Tổ Quốc XHCN gian ác mà Cộng sản Việt Nam xấc láo mệnh danh, nay còn dám gọi cả lá cờ đảng nhuốm máu rất ghê tởm của họ là cờ Tổ Quốc.
Chúng tôi có một số lần đấu tranh về tư tưởng chính trị với một số quân cán chính VC ở ngay trong nước hồi trước năm 1984, xin được kể lại nơi đây như vài kinh nghiệm nhỏ nhoi:
*Hồi sau năm 1975, chúng tôi bị Việt Cộng lừa bịp nói đưa đi học cải tạo 10 ngày ở trại phi trường Trảng Lớn, Tây Ninh, rồi nhốt luôn mấy năm.
Thời kỳ đầu, chúng tôi bị bắt phải nghe giảng một số bài ở hội trường, rồi về tổ thảo luận có sự chứng kiến của một quản giáo.
Bất ngờ với tôi là sau thời kỳ học tập chính trị, bỗng nhiên anh chàng quản giáo trẻ tuổi tìm gặp riêng tôi khi tôi bịnh ở nhà, không phải đi lao động, đang vẩn vơ một mình nơi nhà bếp.
Anh ta chào từ biệt tôi, và cho biết sẽ rời trại về Hà Nội đi học tiếp, vì anh ta là sinh viên đại học sư phạm, được điều vào nam công tác đặc biệt, là chủ trì các buổi thảo luận của trại tôi, nơi tập trung các sĩ quan biệt phái, có trình độ kiến thức cao.
Anh ta hỏi tôi là những phát biểu về chủ nghiã Cộng sản của tôi lấy từ sách vở nào ra, mà anh chưa từng được biết, tuy đã được giảng dậy và đọc nhiều sách viết về chủ nghiã này ở Bắc Việt?
Đó là những vấn đề như:
-Karl Marx cho rằng người công nhân dưới chế độ tư bản 'vong thân' trong sản xuất, vì anh ta làm ra những sản phẩm mà chẳng bao giờ được sử dụng, như việc sản xuất xe hơi... Dĩ nhiên điều này chỉ đúng ở thời điểm Karl Marx sinh sống, chứ không còn đúng với cuối thế kỷ XX, khi người công nhân ở các nước Tư bản như Mỹ, Anh, Pháp, Úc... đã có xe hơi từ lâu, trừ công nhân các nước Cộng sản như Nga, Tàu, Bắc Hàn, Việt Nam, Cuba?!
Dĩ nhiên tôi không thể cập nhật hóa vấn đề, mà bỏ lửng vấn đề nửa chừng, để người nghe tự suy nghĩ phần sau.
-Lê Duẩn nói 'Muốn xây dựng Chủ nghiã Xã hội, cần phải có những con người Xã hội Chủ nghiã'. Tôi nêu các điều kiện của 'Con người XHCN' rất cao, mà ai nấy phải tự rèn luyện cái Tâm lớn, cái Trí cao mới có thể theo được, rất ư khó khăn vì vượt quá sức người bình thường. Do thấp ra cũng phải có ý thức 'ta vì mọi người' như 'làm theo năng lực - hưởng theo nhu cầu'. Còn cao hơn thì cần có ý thức như một danh ngôn 'Đừng đòi hỏi Tổ Quốc phải làm gì cho mình - mà hãy tự hỏi mình đã làm được những gì cho Tổ Quốc'. Đương nhiên tôi không dại gì nêu tên tác giả của câu nói là Tổng thống Mỹ JF Kennedy.
...
Như thế những ai có chút suy nghĩ sẽ thấy tôi kín đáo chê CNXH là không tưởng, lỗi thời không bắt kịp thực tế đã phát triển. Nhất là trong đời thường, hai giai cấp Công và Nông tâm trí thấp, hầu hết là những phàm phu tục tử, lười biếng không chịu học (hoặc không có hoàn cảnh đi học để mở mang tâm trí), nên làm sao có thể có được những ý nghĩ cao xa, phát huy Tâm lớn & Trí rộng khi lãnh đạo? Điển hình là bấy nay, hầu hết cán bộ cộng sản từ cao xuống thấp đều mờ mắt trước các tiện nghi do chế độ Tư bản sản xuất, tìm mọi cách tham ô bất chính hầu có thể sở hữu?
Như vậy từ lý thuyết cũ càng không còn hợp thời, đến các hành vi bán nước & buôn dân của bọn Cộng sản Việt Nam bấy nay, chúng ta chỉ cần đối thoại lịch sự, nêu các vấn đề này một cách ôn hòa, đặt ra các câu hỏi, đưa ra các nhận định thực tế hợp tình & hợp lý... hơn là những nguyền rủa, đả đảo hời hợt nhàm chán, không thể thuyết phục bất cứ ai?!
Thực tế đấu tranh kém hiệu quả bấy nay, minh chứng cụ thể?!
Chúng ta nên coi Cộng sản Việt Nam như những đứa trẻ sai lầm, vì thiếu kiến thức về chính ngay chủ nghiã Cộng sản đích thực của Karl Marx, cần chỉ bảo hơn là miệt thị? Cần lý luận với những minh chứng cụ thể để thuyết phục, hơn là tranh cãi theo chiều hướng mình là đúng nhất, ai nấy đều hoàn toàn sai trái, mà không chịu nghiên cứu xây dựng lập luận vững vàng và cập nhật hóa các lý luận, chứng minh sự đúng sai theo từng thời điểm.
Tử điểm của Cộng sản Việt Nam mà chúng ta cần khai thác, là chính những bài hát, thơ văn... trước đây họ dùng để lên án sự xấu xa của các chế độ Phong kiến, Thực dân, Tư bản, Phát xít, Quân phiệt... thì nay chính họ lại bao gồm hết tất cả những cái xấu của các chế độ trên cộng lại, mà chưa có được một điều tốt nào?!
Và điều cần giúp họ minh định lập trường, là lấy Dân Tộc làm gốc gác của mọi mục tiêu hành động. Chủ nghiã Cộng sản do quá lý tưởng mà trở thành không tưởng, hoang tưởng, khi thực hiện đã mở ra những cơ hội cho bọn cầm quyền tham ô, thối nát... vì bản chất sinh tồn của con người là tư hữu các tài sản, nên vô sản là điều quá cao xa với nhân quần xã hội.
Nhận Định Chung
Ngày trước Nguyễn Phúc Ánh vì quá sợ vua Quang Trung, mà cầu viện Xiêm La, Pháp... đưa đẩy dân tộc đến chỗ bị Pháp thuộc hàng trăm năm. Nay Cộng sản tại Việt Nam cũng vì sợ Người Việt lật đổ, trả thù đòi đủ thứ nợ máu, nợ đất, nợ vàng... mà phải ôm chân Trung Cộng một cách đê hèn, đang đưa đẩy quốc gia & dân tộc đến chỗ mất nước. Do vậy, người Việt trong và ngoài nước cần hiểu rõ vấn đề này, tránh đưa ra các chủ trương đường lối sát phạt trong công cuộc quang phục quê hương?
Đây chính là những đòn cân não mà chúng ta cần nghiên cứu, thực hiện một cách có văn hóa, bằng cả Tâm lẫn Trí, mới mong kết hợp lòng người, thu phục kẻ lầm đường lạc lối, đoàn kết cả trong và ngoài nước, hầu có thể chung lưng đấu cật khi cứu quốc và kiến quốc.
Phải chăng đã đến lúc chúng ta cần thay thế những ý tưởng 'Diệt Cộng', 'Chống Cộng'... thời trước 1975 khi còn súng đạn, bằng những ý tưởng như 'Tôn trọng Nhân Quyền', 'Tự do Dân chủ đích thực', 'Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ & lãnh hải Quốc gia'... tuy là cùng ý hướng yêu nước, nhưng lại chống Cộng rất mực thích hợp với hiện nay, mà không gây phản cảm, sợ hãi cho những người lầm lỡ bên kia chiến tuyến?
Vì 'diệt cộng', 'chống cộng' chỉ là một trong các phương pháp tiến tới dân chủ, tự do, nhưng gây nhiều khó khăn hơn việc làm sao giúp mọi người hiểu về tự do dân chủ, đòi hỏi nhân quyền... là những thứ các thể chế cộng sản, độc tài, quân phiệt không bao giờ tôn trọng?
Một sự thật mà nay chúng ta phải thừa nhận, dù đau lòng, là dân trí không ít người Việt từ thất học đến học thức trình độ cao, đã chịu ảnh hưởng nặng nề của các tư duy ngoại lai, trở thành những kẻ vong bản, vong thân, mà chia phe đánh phá nhau... mất đi ý thức chung về một văn hiến Tiên Rồng uyên bác cao đẹp, từng giúp Quốc Gia & Dân Tộc tồn tại& phát triển tốt mấy ngàn năm qua, dù nhiều lần bị các vua chúa và lãnh đạo yếu kém làm mất nước.
Sự kiện bấy lâu nay nhiều tổ chức và cá nhân luôn tự cho mình là đúng nhất, thể hiện trình độ của các thầy bói sờ voi - tức là chỉ đúng với những hiểu biết hạn hẹp của mình mà thôi, nhưng chưa mấy ai chịu hiểu ra?!
Nói theo lối đánh cờ tướng, thì chống cộng chỉ là nước cờ thô thiển nhất; còn đòi hỏi tự do dân chủ mới là nước cờ cao, phải tính toán tập luyện nhiều nước cờ tiến thủ biến hóa khác nhau, mới có thể dồn đối thủ vào thế bí?
**
Một sự ác hại nhất, là mấy ngàn năm qua Việt Nam chỉ có những người học thức, suy nghĩ và hành động dựa trên cái vốn học và hỏi rất giới hạn của mình, chẳng khác gì ông thầy bói rờ voi biết rõ là mình đúng theo nguyên tắc 'cách vật - trí tri', nhưng chỉ là sự hiểu biết hạn hẹp, tuy không sai nhưng chưa đúng với sự thật lớn lao của chân lý.
Nhìn vào sử sách được viết mấy ngàn năm qua, chúng ta sẽ thấy người viết chỉ có thể viết theo những gì đã học được, hơn là vượt ra ngoài cái học giúp thi đỗ, làm quan phục vụ chế độ.
Thời ảnh hưởng Tàu tôn Khổng Tử làm 'vạn thế sư biểu'... thì có khác gì thời ảnh hưởng Cộng sản, tôn 'Marx, Lênin' là 'vô địch bách chiến bách thắng?!
Vì chỉ là người học thức, nên bấy nay giới lãnh đạo Việt Nam chỉ biết tung hô những gì đã được dạy dỗ, đến độ không còn biết gì đến văn hóa truyền thống dân tộc?!
Vì một người có đủ 'trí sáng' để đáng được gọi là 'trí thức', thì không bao giờ ngu xuẩn tới mức coi tôn giáo, đảng phái của mình hơn cả Quốc gia & Dân tộc, rơi vào chỗ phân biệt nhỏ nhen mà thành chia rẽ, hận thù, làm hại đồng bào?!
Thiển nghĩ những người như Bác sĩ Phạm Hồng Sơn, Luật sư Lê Thị Công Nhân, Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ... tuy chỉ ở trong nước, chỉ hấp thụ lối giáo dục một chiều của Cộng sản từ bé đến lớn, nhưng đã biết vượt lên trên cái vốn học thức của mình, nhìn cao xa hơn khung cảnh sống của mình, phủ nhận các điều sai trái có hại cho dân cho nước, quyết tâm đấu tranh cho chính nghiã, can đảm đương đầu với cái ác. Đây mới có thể gọi là người 'trí thức' - xứng đáng là sĩ phu của Việt Nam vậy?
Còn đa số chúng ta chỉ biết lấy cái học để mưu cầu lợi danh cho bản thân, gia đình, coi nhẹ lợi ích của cộng đồng, xã hội, quốc gia; mà không hiểu được rằng sự hạnh phúc chỉ có thể vẹn toàn khi từ bản thân đến dân tộc đều có tự do dân chủ đích thực trong cuộc sống.
Nếu ai nấy không sớm thức tỉnh dấn thân cứu quốc, chúng ta sẽ rơi vào vị trí của kẻ không bằng đứa thất phu, qua câu 'Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách'?
Riêng với trường hợp của Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ, còn cho chúng ta một bài học: 'Nếu các bậc cha anh không chịu dấn thân đấu tranh cho chính nghiã, mà để lại việc này cho con cháu, chẳng khác gì di họa cho chúng, mọi sự chăm lo cho tương lai của chúng trở thành vô nghiã?!'
Cụ thể, nếu như trước đây thi sĩ Huy Cận, người từng là bộ trưởng Văn hóa của Cộng sản Việt Nam, có ý thức cao về Văn hóa Cỗ truyền, có lẽ con ông là Tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ sẽ không bị chính chế độ xấu xa mà ông từng phục vụ, giam hãm lưu đầy; trở thành một nhà lãnh đạo ích quốc lợi dân?
Nếu nhìn những con cái của các cán bộ cộng sản bị sa đọa, hư hỏng - hoặc phải đi ''du học'' xa nhà do một chế độ băng hoại tạo ra, chúng ta cũng thấy họ đã phải lãnh các hậu quả tai hại ra sao, khi cúc cung phục vụ - bảo vệ một chế độ xấu xa hung tàn, gây ra không biết bao nhiêu điều ác hại không chỉ cho chính gia đình họ, mà còn cho cả dân tộc về lâu về dài!
**Vàng Máu và Nước Mắt
'Bước vào đầu thế kỷ 21, nước ta vẫn còn là một trong các nước chậm tiến trên thế giới, mặc dầu có sẵn tiềm năng, chỉ vì những người giữ trọng trách đã phạm nhiều lầm lỗi. Những thảm trạng xảy ra trong hơn nửa thế kỷ vừa qua cần phải được ghi nhớ, trong đó hai sự kiện gần nhất là việc nhà cầm quyền cộng sản giam cầm công dân vô tội trong tù cải tạo và việc người dân vượt biên trốn thoát ra ngoại quốc trong những điều kiện bất trắc đầy nguy hiểm. Cưỡng bức giam người trong trại tù tập trung, tập đoàn cộng sản đã vi phạm tội ác, phung phí năng lực quốc gia để phục vụ cho mục tiêu đảng phái. Không chịu thú nhận rằng chính sách cộng sản tàn bạo là nguyên nhân việc người dân trốn thoát bỏ nước ra đi, họ còn lợi dụng cơ hội cướp đoạt tài sản, thu vàng bán bãi, mặc cho tài năng quốc gia thất thoát ra ngoài và sinh mạng chết oan trong lòng biển cả.
'Trong niềm đau chung của dân tộc, người chuyên viên trí thức đã góp nhiều mổ hôi, nước mắt, của cải và sinh mạng. Ngành y cùng chịu chung điều bất hạnh ấy, nhưng là một tập thể tương đối đồng nhất, có sinh hoạt chung tại hải ngoại, chúng tôi nhận làm nhân chứng, đứng lên tố cáo tội ác trước công luận.
'Chúng tôi lên tiếng để công lý sáng tỏ, để thảm trạng không còn tái diễn và con cháu chúng ta có thể hiểu được cái trớ trêu của cha anh tại sao phải liều thân đi tìm nơi tỵ địa. Từ đó hậu thế sẽ tìm ra đâu là con đường xây dựng lại quê hương đã bị tàn phá vì tham vọng đảng phái và ác độc tàn bạo.
**
'Đã có rất nhiều hồi ký, tham luận bàn về nỗi đau thương của cải tạo lầm than và vượt biên gian khổ. Nhưng lần này, cuộc khảo sát chung trong tập thể mang tính cách thống kê khoa học, có mục đích trình bày thực chất của một chính sách đàn áp nhằm triệt hạ một tập thể, một thành phần của dân tộc. Đây chính là tội ác chống lại nhân loại, mà thế giới hiện nay đang lên án và xét xử.
**Chiến sử Thủy Quân Lục Chiến
'-Chúng tôi viết những bài hồi ký này để nhắc nhở con cháu rằng cha và ông của chúng đã chiến đấu cho Tự Do và Dân Chủ. Chúng tôi đã chiến đấu để con cháu chúng tôi sẽ không bao giờ chịu những bất công tàn ác của chế độ Cộng sản. Và chúng tôi ra sức phục hồi lại cuộc sống tả tơi của mình trên đất khách cũng vì những lý do: để cho những thế hệ kế tiếp có thể phát triển, thăng tiến mà không sợ bị bạc đãi hay trừng phạt. Giới trẻ cần có được những dữ kiện chính xác không bị bóp méo bởi thành kiến.
'Họ phải hiểu rằng miền Nam Việt Nam đã phải đối phó không chỉ riêng với một kẻ thù trong nước, mà còn cả với sự đảo điên của những nhà làm chính trị thế giới nữa. Những thế lực bên ngoài và chính trị của các nước khác đã xé nát miền Nam như cuộc nội chiến đã làm. Bị phá trên mọi chiến tuyến, miền Nam cuối cùng đã phải gục ngã một cách đau thương trước chứng ung thư phát xuất từ miền
Bắc Việt Nam.
'Chúng tôi viết để nhắc nhở những người trẻ Việt Nam về cái 'Gia Tài Hãnh Diện'. Trong cuộc sống lưu lạc, hố sâu về văn hóa và ngôn ngữ đã làm cách ngăn bố mẹ và con cái của nhiều gia đình. Chúng tôi hy vọng giới trẻ khi đọc những hồi ký này sẽ hiểu rằng: Một người cha suy sụp tinh thần, một người chú tàn tật, một người ông ốm yếu của họ, trước kia đã từng là một người trẻ hãnh diện, yêu nước và can đảm. Chúng tôi tin rằng họ sẽ nhìn những vết thương xấu xí vì những mảnh đạn, những đôi tai nghễnh ngãng vì tiếng súng, sự bất khiển dụng tay chân của chúng tôi là huy hiệu của Danh Dự, là biểu tượng của Hy Sinh. Chúng tôi mong họ hiểu, tự hào và thương cảm.
**Đại cương về các Đảng Phái Chính Trị Việt Nam
'Các đảng phái Quốc gia đã thất bại trong việc xây dựng một quốc gia độc lập, dân chủ; nhưng thất bại đó không phải là một thất bại hoàn toàn.
'Nếu chế độ chính trị gọi là chế độ Quốc gia ngày nay đã khá vững vàng là nhờ cuộc tranh đấu của các đảng phái. Đảng Cộng sản đã bị loại trừ ở một số khu vực, một phần nhờ ở các đảng phái Quốc gia đã đủ sức để tiêu diệt ảnh hưởng của đảng Cộng sản.
'Nếu các chánh quyền không khư khư giữ độc quyền ái quốc, độc quyền chánh trị thì chắc chắn đảng Cộng sản chẳng có thể bành trướng như ngày nay.
**Từ Thực dân đến Cộng sản
'Ông Hoàng Văn Chí hiện còn bôn ba ở hải ngoại, đã tự giao cho mình trọng trách trình bày vấn đề Việt Nam với độc giả quốc tế, và phổ biến kinh nghiệm Việt Nam ra khắp thế giới tự do; vì trước khi rời khỏi Bắc Việt năm 1955, ông đã hứa với các bạn bè trong hàng ngũ trí thức kháng chiến là ông sẽ cố gắng nói lên tâm trạng đau thương của họ và của toàn thế nhân dân miền Bắc đương quằn quại dưới chế độ Cộng sản.
**Những chuyện cần được kể lại
'Chúng ta, đã đến lúc cũng phải nhận ra điều cay đắng tàn nhẫn sau đây:
'Người lính Việt Nam đã bị biến thái thành công cụ của các tập đoàn cầm quyền (Bắc lẫn Nam trước 1975) và bị mạ lỵ sau cơn bức tử (đối với người lính miền Nam) một cách bất công đê tiện. Riêng ở miền Bắc và suốt cả nước sau ngày 30 tháng Tư nghiệt ngã kia, những người lính ấy đã đi đến bước chót của lần vong thân toàn diện - Công cụ của Bạo Lực. Hành xử Bạo Lực. Bảo vệ Bạo Lực. Bộ máy cầm quyền Cộng sản ở Việt Nam đã chính quy hóa, hợp lý hóa quá trình này rất lâu và có hiệu quả. Campuchia, Afghanistan 1979, Angola 1988 và hôm nay Chechnya, đã là những cảnh cáo thích đáng đối với các đạo quân cộng sản đi xâm lược. Nhưng quân đội đó, những người lính nơi quê hương tan tác oan khuất kia vẫn chưa ra khỏi cơn mê chìm trầm trọng đáng sợ này. Lỗi không ở người lính. Người Việt Nam đã từ lâu thiếu một nền Nhân Lý, một nghiã lớn Dân Tộc. Phần chúng ta, người lính miền Nam, dù cho không đi hết bổn phận đến ngày toàn thắng, đã có nhiều sơ sót, vụng về, khiếm khuyết trong sứ nhiệm xả thân, nhưng quả thật chúng ta đã làm đúng chức năng cao qúy - Vị QUỐC AN DÂN. Và chúng ta đã trả giá về nỗi thất bại bi thiết kia bằng đời sống của chính mình.
'Người lính của Dân Tộc Việt đã bị bức tử cùng vĩnh quyết miền Nam.
'Thế nên tôi vẫn tiếp tục viết về người Lính. Viết về Chiến Tranh và nỗi Đau. Những Con Người Khổ Đau. Tôi không thể viết gì khác. Không có gì khác, Bởi nếu không, sẽ là bội bạc, vong ân rất đáng nguyền rủa. Chúng ta sống hôm nay từ máu những người lính. Máu của người đã chết.
** Mặt Thật
'Thực tế phũ phàng, chủ nghiã xã hội hiện thực đã không chắp cánh, mà còn 'cắt cánh' mọi mơ ước, vùi dập trí tuệ, tự do, sáng tạo của toàn xã hội. Đó là bi kịch lớn, dẫn đến sự sụp đổ tất yếu.
**Đêm giữa ban ngày
'Trong 9 năm tù tôi chỉ làm được một việc có ích, cho bản thân và cho những người mà tôi thương yêu, là giã từ được ảo ảnh về một chủ nghiã cộng sản được tô vẽ như là thiên đường dưới thế.
'Sự nhìn lại đời mình cũng như sự quan sát số phận của đồng bào trong những nhà tù mà tôi đi qua đã mang lại cho tôi cái nhìn tỉnh táo không riêng đối với những hành động phi nhân của những vua chúa mới, mà cả một thể chế xã hội trong đó con người dù muốn dù không đều đánh mất mình...
'Xã hội này là khó hiểu bởi vì, căn cứ những gì tôi biết, nó khởi sinh từ nhữn ý muốn tốt đẹp, bắt đầu bởi những con người lương thiện. Cũng căn cứ những gì tôi biết, tôi dám đoan chắc rằng trước kia, khi mới nhập vào dòng chảy không bao giờ ngưng của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, họ không hề ấp ủ những mưu đồ xấu xa.
'Trong sự biến dạng của những người cộng sản, trong sự tha hóa của họ, cái gì là tác nhân - chủ thuyết mà họ theo đã nhào nặn con người họ thành ra như thế, hay chính họ tự biến đổi để trở lại nguyên hình, cho đúng với bản thể do trời đất tạo ra, hay là cả hai cái đồng thời, tôi không rõ.
**Trả ta sông núi
'Ta đã thua vì ta không có lãnh đạo. Miền Nam đã bại vong vì bất hạnh không có được một hệ thống lãnh đạo đúng nghiã với đạo lý Đông phương và tinh thần Lễ, Nghiã, Liêm, Sỉ, truyền thống của dân tộc, của tiền nhân.
'Phải can đảm nhìn nhận rằng, từ 1963 đến 1975, hệ thống cai trị của Việt Nam Cộng Hòa đã hoàn toàn mục nát, sụp đổ, vua không ra vua, quan không ra quan, trên không ra trên, dưới không ra dưới, không còn tương kính, không còn kỷ cương, không còn thể diện quốc gia.
**Việt Nam một thế kỷ qua
'Quên đi quá khứ của mình, quên đi đau thương nhục nhã của mình, của đất nước, có nghiã là quên mất nguồn gốc, và quên mất cả chính mình, trở thành kẻ không còn tâm hồn.
'Quá khứ dù đau thương cay đắng đến đâu, nhưng nó vẫn sẽ kích động chúng ta bước lên, chỉ cần quyết tâm nhìn lại chính mình và thoát bỏ được những lầm lỗi, lạc hướng ta đã phạm.
**Tổ Quốc ăn năn
'Chúng ta có cả một kho tàng nhân sự chưa được khai thác. Những người muốn đổi đời không thiếu trong nước cũng như ngoài nước, trong cũng như ngoài bộ máy nhà nước, kể cả đa số đảng viên cộng sản. Điều mà chúng ta thiếu là một tụ điểm cho những khát vọng. Một tập hợp của khoảng 1.000 người có trí tuệ và trái tim đủ để làm tụ điểm đó. Khó khăn là tạo ra tập hợp này. Nhưng đó là mục tiêu trong tầm tay.
**Biến động Miền Trung
'Thích Đôn Hậu là cơ sở nòng cốt và là lá bài tối quan trọng của cộng sản tại miền Trung, bắt rễ sâu trong Phật Giáo. Tên cán bộ cộng sản điều khiển Thích Đôn Hậu trong bóng tối chính là Hoàng Kim Loan...
'Thích Trí Quang gia nhập đảng cộng sản Việt Nam vào năm 1949, tại mật khu Lương Miêu, Dương Hòa. Lương Miêu, Dương Hòa là một làng nhỏ nằm về phiá tây lăng vua Gia Long, cách làng Đình Môn khoảng 30 cây số đường bộ. Người kết nạp và chủ tọa buổi lễ gia nhập đảng cho Thích Trí Quang là Tố Hữu... Mùa thu năm 2000 tại Hà Nội, nhân nói đến các nhân vật chính trị tại miền Nam trước 1975, chính Tố Hữu xác nhận y là người kết nạp Phạm Văn Bồng tức Thích Trí Quang vào đảng cộng sản.
...
'Chùa Từ Đàm trở thành ''Trung Tâm Quyền Lực'', là Dinh Độc Lập tại miền Trung. Mọi bổ nhiệm các cấp chỉ huy hành chánh và quân sự từ Tỉnh trưởng, Quận trưởng v.v... tại 6 tỉnh miền Trung và đặc biệt là Thừa Thiên & Huế, đều phải có sự chấp thuận của chùa Từ Đàm, của Thầy.
**Sau bức Màn Đỏ
'Trong tương lai gần, sẽ khó có những thay đổi nhanh chóng trong tiến trình dân chủ hóa ở Việt Nam. Vì tuy không còn ai tin vào những danh hiệu tự do, dân chủ, bình đẳng, thế giới đại đồng... của chủ nghiã cộng sản, nhưng nó vẫn là một đảng độc tôn và có nhiều đảng viên trung thành, vì chỉ đảng viên, dù bảo thủ hay tiến bộ, mới có thể có những đặc quyền đặc lợi như quyền cao chức trọng, nhà cao cửa rộng, xe cộ, cơ hội ra nước ngoài, con cháu lý lịch tốt được du học, trở về làm việc ở những cấp lãnh đạo, và rồi họ cũng vẫn muốn giữ nguyên tình trạng đặc ân như vậy.
'Một số cán bộ lãnh đạo như Võ Văn Kiệt, Đoàn Duy Thành, Trần Độ, Nguyễn Trung Thành, Lê Hồng Hà... chỉ bắt đầu chê trách những hành vi của đảng sau khi không còn nắm quyền hành.
**Mặt Trận: Những sự thật chưa hề được kể
'Về một số nhân vật, tôi trả lời rất rõ rệt để chứng tỏ rằng Mặt Trận không phải là một băng đảng Mafia. Tôi nói một cách thật cương quyết và dẫn chứng trường hợp vợ chồng anh NQC, mà chị ấy là cháu Đề đốc Minh, làm thí dụ. Cặp vợ chồng này rất lương thiện, yêu nước, tham gia Mặt Trận lúc còn là sinh viên. Cũng như vợ chồng LT, họ chân thật, chị LT là một nữ y tá (registered nurse), rất nhiệt thành, có tâm hồn dân tộc. Và đại đa số các thành viên Mặt Trận trong vùng Hoa Thịnh Đốn mà tôi biết đều là những người lương thiện, yêu nước. Nếu gán ghép họ vào 'băng đảng Mafia' không những bất công, sai lầm mà còn là một ngộ nhận, làm hại danh dự họ.
...
'Lê Triết thuộc nhóm Đại Việt Hà Thúc Ký. Hơn một lần Lê Triết tâm sự:
'-Tôi có bằng chứng cán bộ và tình báo Cộng Sản xâm nhập vào Mặt Trận từ cơ sở đến Trung Ương, cho nên tối phải ''đánh'', dù có thể bị chúng giết tôi cũng cứ ''đánh''.
**Việt Nam khát vọng dân chủ tự do
'Một sự thật hiển nhiên, chế độ Cộng sản độc tài ở nước ta còn tồn tại bởi vì lực lượng của những người đấu tranh cho dân chủ tự do hãy còn yếu. Dù cho hiện nay tuyệt đại đa số dân chúng Việt Nam đã hiểu rõ và chán ngấy Cộng sản. Tuyệt đại đa số những người Việt Nam ở hải ngoại là những người chống Cộng. Nhưng từ chỗ không thích chế độ đến có hành động chống đối hãy còn một khoảng cách. Từ chỗ chống Cộng ào ạt liên tục nhưng xô bồ, đến chỗ hình thành một lực lượng chống Cộng có tổ chức hữu hiệu của người Việt hải ngoại vẫn còn là một bước xa. Đặc điểm chính yếu của công tác chống Cộng ở hải ngoại có tính cách hỗ trợ nên không đủ sức mạnh để làm thay đổi hiện tình chính trị ở trong nước, nếu lực lượng dân chủ trong nước chưa là một sức mạnh đáng kể.
**Một thời oan trái:
'Một hôm đang đứng ở giữa biển, vị sĩ quan cố vấn, quần áo chỉnh tề, chào tôi và đưa cho tờ công điện ''yêu cầu cho thực tập tác xạ. Chỉ để lại 1 (một) cấp số đạn mà thôi''. Thấy lạ, tôi gọi về bộ Tư Lệnh Hạm Đội, được đại tá Phan Phi Phụng, chỉ huy trưởng Phân Đội Tuần Duyên, vị chỉ huy trực tiếp của tôi hiện tại, xác nhận ''Đúng. Thi hành đi''. Lúc ấy tôi chỉ thấy kỳ cục, đạn để lâu đâu có thiu thối gì... Nhưng khi sắp tàn cuộc chiến ta mới biết rõ: Người bạn đồng minh có nhiệm vụ vắt cạn kiệt mọi khả năng cầm cự của chúng ta. Và bây giờ, mọi người đã thấy rõ, ta có muốn đánh nữa cũng không còn đạn.
(trích sđd trang 344)
'Nay cuộc chiến đã tàn, đã tàn trên 30 năm. Thời gian đủ dài để cá tính, tài năng của những người có lòng cũng như của những kẻ tinh ma, khôn lỏi hay may mắn lợi dụng thời cơ, đều được phơi bày ra hết. Mọi việc diễn ra như một tấn tuồng mà đa số chúng ta là những diễn viên kém cỏi. Nếu chúng ta tài giỏi, chúng ta đã thắng hay không để cuộc chiến kết thúc bi hài như thế. Bi hài hơn nữa khi kẻ thắng không siêu việt như dư luận dành cho; mà ngược lại còn tệ lậu, thua kém, bất xứng so với chúng ta rất nhiều. Phải chăng tất cả đã được số mệnh an bài. Từ ý nghĩ đó, các hờn giận, buồn phiền cá nhân, đâu còn gì là quan trọng nữa. Sự ăn năn nếu có, tôi nghĩ đã thuộc về người khác, không phải là tôi.
(trích sđd trang 328)
**Bài học từ Tunisia
Đầu năm 2011, thế giới của người Ả Rập đã rúng động với cao trào tự thiêu chống các chế độ độc tài.
Sự việc khởi đầu từ lúc một sinh viên Tunisia vừa tốt nghiệp đại học không có việc làm là Bouazizi 26 tuổi, phải kiếm sống bằng việc bán mấy thứ trái cây vặt vãnh trên vỉa hè, bị cảnh sát bắt và tịch thu hết 'hàng hóa', làm mất kế sinh nhai của anh, nên anh tự thiêu để phản đối sự áp bức.
Câu chuyện được loan tải rộng rãi trên internet, bỗng nhiên khiến nhiều người cảm thấy phẫn uất trước sự cai trị khắc nghiệt của Tổng thống Ben Ali suốt 23 năm qua, nên biểu tình phản đối mạnh mẽ, làm cho nhà độc tài Ben Ali hoảng sợ phải bỏ trốn ra nước ngoài.
Một cao trào đòi dân chủ tự do hình thành nhanh chóng được quân đội ủng hộ, cảnh sát tham gia, các quan tòa cũng xuống đường theo... khiến viên Thủ tướng Ghannouchi của Tổng thống Ben Ali dù tuyên bố từ bỏ đảng cầm quyền RCD ngày 21-1-2011, xin nắm quyền tạm cho đến khi bầu cử, cũng bị phản đối đòi phải rời khỏi chính quyền ngay cùng đồng bọn còn sót lại.
Bouazizi chẳng những là biểu tượng đấu tranh cảm động và quyết liệt ở Tunisia, mà còn nhanh chóng được dân ở nhiều nước noi theo:
-Tại Ai Cập ngày 17-1-2011, chủ một nhà hàng 54 tuổi tưới xăng tự thiêu, hô vang trong lửa khẩu hiệu chống nhà cầm quyền độc tài, khi bắt các tiệm ăn phải mua bánh bán với giá gấp 5 lần bình thường.
-Tại Mauritania, một người đàn ông 43 tuổi lái xe đến tòa nhà quốc trưởng ngay giữa thủ đô, tự thiêu trong xe, sau khi lập 1 trang Facebook có tên 'Hãy chấm dứt tham nhũng và độc tài tại Mauritania', kêu gọi đã đến lúc mọi người phải chọn dân chủ, tự do.
-Tại Algeria, có thêm 2 vụ tự thiêu, nằm trong số một loạt vụ tự thiêu phản đối nhà cầm quyền độc tài, tham ô.
Trong khi đó đang diễn ra Hội nghị Thượng đỉnh các nước Ả Rập ở Ai Cập, các nhà lãnh đạo hết sức tránh nói đến chuyện đang diễn ra ở Tunisia, khi bản thân họ rất có thể cũng sắp rơi vào hoàn cảnh bị phản đối tương tự, một khi người dân thức tỉnh, vùng lên đòi quyền sống.
Từ các sự việc xảy ra kể trên, nhà nghiên cứu chính trị nổi tiếng tại Pháp Jaques Attali, đã viết một bài có tựa 'Tunisia, rồi sau đó', đăng trên báo L'Express số ngày 19-1-2011, nội dung cho rằng 'Những gì vừa xảy ra tại Tunisia không phải là điều bất ngờ'.
Chuyên gia Pháp cho rằng lý do của sự kiện không vì chính trị, mà do nền kinh tế thị trường - theo đúng quan điểm 'cách mạng' của Karl Marx là 'Kinh tế Thị trường tạo tiền đề cho cách mạng'.
Nhờ kinh tế thị trường phát triển, hình thành một lớp người tư sản rất cần đến luật pháp minh bạch để bảo vệ quyền tư hữu - bước đầu của dân chủ và tự do.
Hơn 20 năm qua, Tunisia đã chuyển mình mạnh mẽ nhờ kinh tế phát triển, dần tạo ra một lớp tư sản. Lớp người này nhờ internet đã am hiểu thêm về nhân quyền, dân chủ, tự do... nên khi có điều kiện là bùng nổ.
Cũng theo Jaques Attali, thời hiện đại cần có 5 yếu tố cho một cuộc cách mạng lật đổ bạo quyền thành công, là:
1/ Tầng lớp tư sản thành hình, phát triển sâu rộng.
2/ Một quân đội phi tôn giáo, hầu có ý thức cao về mẫu số chung là Quốc gia & Dân tộc, chứ không là một cá nhân, một đảng phái, một tôn giáo nào.
3/ Một tầng lớp thanh niên bị bóc lột, không còn gì để mất.
4/ Đất nước bị cai trị bởi những kẻ bất tài, gian tham, mất lòng dân.
5/ Môi trường quốc tế thuận lợi, can thiệp.
Chuyên gia Pháp Attali đem 5 yếu tố trên soi rọi vào tình hình một số nước độc tài chuyên chính hiện nay trên thế giới, thì cho rằng: 'Sau Tunisia sẽ là Ai Cập - Việt Nam - Trung Quốc - Algeria - Syria...
Nếu chúng ta thử theo lời chuyên gia Pháp Attali, soi rọi 5 yếu tố trên vào Việt Nam, sẽ thấy:
1/ Do Kinh tế Thị trường, dù 'theo định hướng XHCN', tại Việt Nam thời gian gần đây đã xuất hiện một tầng lớp tư sản trẻ tuổi, có học thức và cả trí thức, thoát nghèo nhanh chóng, tiếp cận với internet, có ý thức về tự do & dân chủ. Đặc biệt trong giới luật gia, xuất hiện nhiều nhà đấu tranh có tư duy về dân chủ cao & diễn đạt sắc bén, thuyết phục lòng người. Cụ thể như những bài viết & các lời phát biểu của Luật sư Cù Huy Hà Vũ, Luật sư Lê Thị Công Nhân...
2/ CSVN theo chủ thuyết vô thần, nên vấn đề tôn giáo không đặt ra trong quân đội. Điều đáng nói là Việt Cộng tìm cách đánh đồng Tổ Quốc với Đảng của họ, để mong làm lu mờ ý thức về Quốc gia & Dân tộc, gọi cờ Đảng là cờ Tổ Quốc... Nhưng điều này nguy hiểm vô cùng, một khi bị vạch rõ dã tâm.
3/ Tại Việt Nam hiện nay, tầng lớp trẻ bị bóc lột ngay từ khi cắp sách đến trường, qua các thứ như học phí, lệ phí, y phục phí, sách vở phí, tu bổ trường sở phí... tốn kém quá nhiều đến độ nhiều người dù học giỏi cũng phải bỏ ngang. Sở dĩ CSVN làm như vậy là họ rất sợ người có học biết tư duy, nên muốn áp dụng chế độ giáo dục ngu dân. Tuy nhiên, hoàn cảnh sống dưới chế độ XHCN mấy chục năm qua, cộng với truyền thống hiếu học, đã khiến người dân trong nước càng cố gắng hơn trong việc cho con học hành. Ai có chút tiền dư giả, đều tìm cách cho con xuất ngoại du học. Còn lại ở trong nước, quả thật giới trẻ hầu hết lâm vào cảnh 'không còn gì để mất' - mà sẵn sàng đấu tranh cho quyền sinh tồn của chính mình'.
4/ Năm 2011 CSVN họp Đại Hội Đảng lần thứ XI, bộc lộ sự yếu kém, thiếu người lãnh đạo tài đức. Cụ thể như Nguyễn Tấn Dũng từng phải nhận có trách nhiệm trong vụ Vinashin vỡ nợ vì thua lỗ hàng trăm tỷ đồng... vậy mà vẫn được tại chức, thay vì phải từ chức hoặc bị cách chức? Nhân vật được chế độ tôn thờ, ca tụng như thánh thần là Hồ Chí Minh, thực tế rạch ròi cho thấy chỉ là một kẻ gian dâm, bán nước. Những người còn chút lương tâm, thì chỉ khi mất chức mới dám lên tiếng vạch trần những sự đê tiện xấu xa mà nội bộ mới biết, như Trần Độ, Võ Văn Kiệt... Việc người dân bị cướp nhà đất, hình thành một lớp người khốn khổ mệnh danh là 'dân oan'... Tất cả chứng tỏ 'Đất nước từ khi bị Cộng sản cai trị, bọn lãnh đạo đều là những kẻ thiếu uy tín, mất lòng dân'.
5/ Từ thời Hồ Chí Minh, CSVN phải dựa vào cộng sản Nga - Hoa để tồn tại, bành trướng. Với Nga, chưa kịp đền ơn thì chế độ cộng sản ở nước này sụp đổ. Với Trung Cộng, CSVN đã phải dâng biển đảo, vùng đất biên giới phiá Bắc, vùng mỏ bâuxit Tây Nguyên, mở toang cửa cho mọi thứ hàng phế thải của Trung Cộng tràn vào bán với giá rẻ mạt, làm chết các ngành trồng trọt, chăn nuôi, công kỹ nghệ... Chỉ đến cuối năm 2010, khi Trung Cộng tuyên bố chủ quyền cả vùng Biển Đông qua bản đồ hình lưỡi bò liếm hết, mới bị Mỹ nhảy vào can thiệp, tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi giúp CSVN có thể tách khỏi Trung Cộng, nếu giới lãnh đạo còn đủ khả năng và quyết tâm cứu quốc.
Nhưng CSVN từng bị dư luận cho rằng họ 'Thà mất nước còn hơn mất đảng', nên chuyện tách rời quan thày rất khó xảy ra. Việc chế độ Hà Nội chỉ mua 12 chiến đấu cơ và 6 tàu ngầm của Nga để tăng cường sức mạnh quân sự, bảo vệ đất nước trước sức mạnh quân sự quá lớn củaTrung Cộng, là trò lừa con nít, không thể thuyết phục trấn an được ai?
Tình hình Việt Nam đã tới giai đoạn sinh tử, mà không ít người trong và ngoài nước vẫn chưa tỉnh táo, nhận ra nguy cơ mất nước.
Do vậy thay cho lời cuối của sách, chúng tôi xin mạn phép trích dẫn lá thư của Luật sư Cù Huy Hà Vũ viết từ trong nhà tù Việt Cộng, nhờ vợ là luật sư Nguyễn Thị Dương Hà được vào gặp để thực hiện tranh biện, gửi ra cho đồng bào:
'Thăng Long - Hà Nội, ngày 18-1-2011
'Thưa toàn thể Đồng bào Việt Nam yêu quí,
'Tôi là Cù Huy Hà Vũ, Tiến sĩ luật, thường trú tại 24 Điện Biên Phủ, Hà Nội, bị cơ quan An ninh điều tra - Bộ Công an bắt (hiện tôi bị tạm giam tại trại tạm giam B14
- Bộ Công an) từ ngày 05-11-2010 và bị Viện Kiểm sát Nhân dân thành phố Hà Nội ngày 17-12-2010 ra Cáo trạng số 18/CT-VKS-P2 truy tố về 'Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghiã Việt Nam' theo khoản 1 điểm c Điều 88 Bộ luật Hình sự, vì những quan điểm mà tôi đã nêu trong một số bài viết và bài trả lời phỏng vấn. Những quan điểm đó tóm tắt như sau:
'**Một là mọi người Việt Nam chỉ có một Tổ Quốc là Việt Nam. Chủ nghiã xã hội không phải là Tổ Quốc của người Việt Nam!
'Thực vậy, 'Tổ Quốc' có nghiã là 'Quốc gia do Tổ tiên tạo lập' trong khi 'Chủ nghiã xã hội' là học thuyết chính trị, dĩ nhiên không phải là 'Quốc gia', càng không thể là Quốc gia do các Vua Hùng tạo lập. Do đó, nói 'Tổ Quốc Việt Nam Xã hội chủ nghiã' hay 'Tổ quốc xã hội chủ nghiã' là đánh tráo khái niệm, xuyên tạc bản chất của Tổ Quốc.
'Chính trên quan điểm 'Việt Nam là Tổ Quốc duy nhất của mọi người Việt Nam' mà ngày 10-8-2010 tôi đã gửi Quốc hội Việt Nam kiến nghị lấy 'Việt Nam là quốc hiệu để thực hiện Hòa giải dân tộc, nhằm đoàn kết tất cả mọi người Việt Nam trong nước và ngoài nước, bất luận chính kiến, trong nỗ lực chung xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam ngang tầm thời đại.
'**Hai là, Đa đảng là con đường duy nhất để thực hiện một nước Việt Nam thực sự Dân chủ, toàn vẹn lãnh thổ, giàu mạnh, công bằng và văn minh.
'Thực vậy, Dân chủ đồng nghiã với chung sống của những người quan điểm khác biệt, và do đó Dân chủ đồng nhất với thể chế Đa đảng. Có Dân chủ - Đa đảng thì các mục tiêu 'Toàn vẹn lãnh thổ', 'Giàu mạnh', 'Công bằng' và 'Văn minh' tất yếu sẽ đạt được. Nói cách khác, có Dân chủ - Đa đảng thì sẽ có tất cả.
'**Ba là, liên minh quân sự với Hoa Kỳ là cấp thiết và quyết định trong việc giữ vững chủ quyền lãnh thổ và thu hồi toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam bị nước ngoài xâm lược ở Biển Đông, trong đó có quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Những quan điểm trên tôi quyết giữ vững trong bất cứ hoàn cảnh nào vì lợi ích tối cao của Tổ Quốc Việt Nam, của toàn thể Dân tộc và nhân dân Việt Nam.
'Nhân tết Tân Mão, với tư cách một người Việt Nam yêu nước, xin kính chúc toàn thể Đồng bào một Năm Mới An Khang Thịnh Vượng!
'Tôi cũng cậy toàn thể Đồng bào chuyển đến các cá nhân, tổ chức đã quan tâm và ủng hội tôi trong cuộc đấu tranh vì Công lý, Dân chủ ở Việt Nam lời chúc tốt đẹp nhất của tôi nhân đầu Năm Mới của Thập kỷ Thứ Hai, Thiên niên kỷ thứ ba.
'Tổ Quốc Việt Nam hay là chết!
'Cù Huy Hà Vũ.
***
Cuối cùng là nhận định của hai vị trí thức hàng đầu sinh sống ở 2 phiá Quốc Cộng: Giáo sư Thạc sĩ Vũ Quốc Thúc và Triết gia Trần Đức Thảo
**Vũ Quốc Thúc ''Thời đại của tôi II''
'Tranh đấu cho đất nước khi có nhiều sự chia rẽ giữa các người yêu nước, giữa các tổ chức chính trị, là một vấn đề không dễ giải quyết. Bất cứ hành động nào cũng có thể gây ngộ nhận, và sự ngộ nhận này luôn luôn bị đối phương tìm mọi cách khai thác, gây chia rẽ trong cộng đồng tỵ nạn ở hải ngoại. Để bảo vệ tình liên đới giữa những người quốc gia, ta cần phải đặt quyền lợi tối thượng của dân tộc lên trên mọi cảm tình tư thù, tư vị.
'Quyền lợi tối thượng của dân tộc là gì?
'Không những là tương lai rất gần của những người tỵ nạn, mà còn là tương lai của con cháu chúng ta. Chúng ta được sống tạm thời yên ổn ở hải ngoại, nhưng chúng ta đừng quên rằng còn nhiều triệu đồng bào của chúng ta đang sống dưới chế độ độc tài của đảng sản Cộng sản. Bổn phận của chúng ta là phải đem lại tự do cho họ, dù sau này dùng hình thức nào chăng nữa, ta phải luôn luôn đặt quyền lợi của đất nước, của dân tộc lên trên hết. Nếu cứ kéo dài mãi hận thù để rồi đi tới xung đột lẫn nhau, thậm chí gây chiến tranh huynh đệ tương tàn, quả thực chúng ta có tội với hậu thế...
'Quyền lợi tối thượng của dân tộc đòi hỏi chúng ta phải duy trì nền độc lập thực sự của đất nước, bảo vệ các quyền tự do thiên bẩm của mọi người dân, bảo vệ những quyền lợi kinh tế của quốc gia Việt Nam. Đừng để cho những quyền lợi đó bị ngoại nhân lũng đoạn.
'Đó là tiêu chuân mà tôi cho rằng bất cứ người Việt yêu nước nào cũng phải chấp nhận.
**Trần Đức Thảo 'Những Lời Trăng Trối'
'-Tại sao bác không như những người cộng sản vẫn tin tưởng thù hận là động cơ cực mạnh để đưa hành động cách mạng tới thành công?
'-Tôi đã nghiệm ra rằng cuối cùng những hành động do thù hận không thể nào đưa tới thành công. Tại vì hận thù là tố chất tâm lý bệnh hoạn rất truyền nhiễm, rất độc hại. Nó đưa tới tình trạng mù quáng trong nhận định, nó dẹp bỏ lương tri, nó mở đường hành động cho mọi thủ đoạn gian xảo và tội ác, nó tạo ra nguyên tắc ''cứu cánh biện minh cho phương tiện''... Nguồn gốc của thù hận trong xã hội ta ngày nay là do tình trạng đất nước ta đã một thời bị chìm đắm trong bầu không khí cuồng tín, vì lãnh thổ đã bị chia cắt thành hai chế độ với hai lá cờ, với lời thề quyết tiêu diệt nhau để thống nhất lại lãnh thổ...
(trích sđd trang 55)
'-Nay chúng ta phải sáng suốt mà phân tích, mà suy nghĩ về hoàn cảnh và các yếu tố chia cắt, chia rẽ này, để thấy rõ chúng ta chỉ là những nạn nhân đau đớn của những kẻ có trách nhiệm làm lịch sử. Có thể nói họ đã làm hỏng lịch sử. Họ đây chính là lãnh đạo.
(trích sđd trang 57)
'-Từ những ứng xử lật lọng của chính quyền, của guồng máy tuyên truyền nặng tính giáo điều, vừa ngu tín, vừa cuồng tín... Tất cả đều bắt nguồn từ cái ý thức hệ hung hăng ''đấu tranh giai cấp'': nhu cầu đấu tranh đã sinh ra muôn vàn tội ác, đã gieo rắc hận thù, đã phát triển bạo lực, đã chia rẽ dân tộc rất là nặng nề và tai hại. Không đưa ra ánh sáng những sai trái ấy để phân tích, để lý giải, để thanh toán chúng thì dân tộc còn bị chia rẽ lâu dài, xã hội sẽ ngày càng bế tắc, chính quyền ngày càng ung thối...
(trích sđd trang 216)
'-Những lời lẽ lý giải đúng, những phân tích hơn thiệt, đều là những hạt giống gieo vào thời gian để rồi sẽ có lúc, có chỗ cho nó bén rễ trong những đầu óc tỉnh táo, lương thiện để tới một ngày nó sẽ ra hoa đẹp, kết trái ngọt. Những tư tưởng đúng với lương tri, thấm nhuần thực tại đều có sức mạnh của sự thật. Có ngày nó sẽ bung nở ra để xóa đi gian trá và bạo lực. Trong lịch sử, luôn luôn có sự vùng dậy của chân lý và lương tri. Chính vì vậy mà chế độ gian trá và tàn ác nào rồi cũng sẽ sụp đố. Vì với thời gian những lời nói dối trá, những việc làm gian ác cuối cùng cũng sẽ chỉ sinh ra toàn hoa hôi, trái đắng.
(trích sđd trang 239)
Copyright © 2024 Giao Su XKZ - All Rights Reserved.
Powered by GoDaddy
We use cookies to analyze website traffic and optimize your website experience. By accepting our use of cookies, your data will be aggregated with all other user data.