Ca là hát, dao là bài hát.
Ca dao là những bài hát được dân gian sáng tác, bày tỏ các tình ý, nhằm nêu lên các kinh nghiệm, các bài học có tình có lý gần gũi trong cuộc sống hàng ngày, được sáng tác bằng các thể thơ nhiều vần điệu, nên dễ nhớ, dễ hiểu, dễ đi vào lòng người.
-Đồng Dao là những bài ca dao dùng để dạy trẻ, nên một số bài có kèm theo trò chơi, giúp trẻ hiểu biết và phát triển các khả năng về trí dục, đức dục, thể dục, tâm lý, tình cảm...
-Phong Dao là những bài ca dao nói về các phong tục, tập quán một số nơi, để ai nấy hiểu biết hầu có thể tuân thủ, sinh hoạt phù hợp trong cuộc sống xã hội ở nhiều nơi khác nhau.
-Vè là những bài ca dao mỗi câu chỉ có 4-5 chữ, một số bài thường có tính trào phúng, nhằm châm biếm những thói xấu, tật hư, để giáo dục người đời một cách thi vị. Ngoài ra còn lối vè tả người và việc, nhằm truyền bá các kiến thức phổ thông một cách ngắn gọn, dễ nhớ.
-Câu Đố là những câu ca dao nêu ra hình ảnh các sự vật một cách trừu tượng, bắt người ta phải suy nghĩ mới có thể giải đoán, nhằm kích thích phát triển trí óc một cách thông minh. Người Việt còn dùng hình thức và nội dung của các câu đố để giáo dục về tâm sinh lý một cách kín đáo, hữu hiệu.
-Ru - Hát - Hò - Lý... là cách diễn tấu các câu ca dao theo nhạc điệu, nhằm công khai bày tỏ ý tình.
Khi nghiên cứu về ca dao, cần phân biệt những bài do người bình dân Việt xưa nay làm ra, khác với các bài do giới học thức bị ảnh hưởng các tư tưởng ngoại lai làm để tuyên truyền, phổ biến các giáo điều.
Cụ thể như các bài do nho sĩ làm để ca ngợi khuôn mẫu của Tam Giáo, các bài do cán bộ Cộng sản Việt Nam làm để tuyên truyền ca ngợi lãnh tụ và chế độ... khác với những bài thể hiện sự hồn nhiên phóng khoáng của người Việt.
Tuy nhiên, cũng có khá nhiều người có học thức, đã bản địa hóa được cái học của mình, giữ nguyên vẹn được tâm hồn truyền thống dân tộc khi làm ca dao để tỏ bày các ý tình quốc hồn, quốc túy.
Điều này có thể nhận ra, vì ca dao Việt chỉ ca ngợi công đức cha mẹ sinh thành, tình cảm yêu người - yêu đời - yêu nước... như nội dung các cổ tích có trước khi các nền văn hóa ngoại lai du nhập, nên khác biệt; và sau này thường có thêm các câu châm biếm một số người và việc tiêu biểu không tốt của các nền văn hóa ngoại lai.
Nên lưu ý ở đây là ca dao Việt Nam có sự phân biệt rõ ràng giữa tôn giáo và tu sĩ của các tôn giáo, khi chỉ phê phán việc làm của các tu sĩ bất chính, mà ít khi động chạm tới các vị tu sĩ chân chính cũng như lý tưởng cao đẹp của các tôn giáo.
Do vậy, nếu có những câu ca dao ca ngợi vài giáo điều không thích hợp với truyền thống Việt của tư tưởng ngoại lai, thì những câu này do những kẻ bị tha hóa làm ra. Chúng tôi sẽ xin phân tích về điều này ở phần đề cập đến đạo lý truyền thống của người Việt.
Dưới thời Cộng sản cai trị hà khắc ác độc, nhà thơ Bút Tre đỗ Tú tài Triết học, đã phản ứng sắc bén qua lối ca dao dân quê bằng việc sáng tạo ra loại thơ 'Bút Tre', dùng câu & chữ bề ngoài có hình thức ngắt câu rất ngô nghê ngộ nghĩnh, nhưng nội dung lại rất uyên bác để châm biếm chê bai người và việc của Cộng sản Việt Nam, được dân chúng đồng tình truyền tụng sâu rộng, phát triển tạo nên một phong trào sáng tác loại thơ gần gũi với ca dao này, cười cợt bọn 'cán ngố' một cách dí dỏm mới lạ rất sắc bén, mà lại 'ăn ảnh' ít gì cho bằng.
Vì thế thơ Bút Tre nên được coi như một hình thức đối kháng bằng ca dao mới mẻ uyên bác bén nhọn, của một thời đại dân tộc bị Cộng sản Việt Nam nô lệ cộng sản Nga Hoa, cai trị đàn áp tự do dân chủ bằng những ngón đòn Cộng sản Đệ Tam quốc tế rất ác độc, sản phẩm của những tên lãnh tụ cùng hung cực ác như Lénine - Staline - Mao Trạch Đông - Hồ Chí Minh... cho thấy văn hóa truyền thống Việt đã có những hình thức phản ứng uyên áo khác nhau tùy thời thế, hầu có thể phê phán & ghi lại hình ảnh các chế độ xấu xa đê tiện lưu mãi về sau qua các câu ca dao xưa nay, mà vẫn thoát khỏi sự kiểm duyệt, khiến bọn tàn hung cũng bó tay vì khó có thể kết án, làm tội. Điều này thể hiện sức sống biến hóa của tinh thần dân tộc Việt qua văn hóa, khi cần đương đầu với bọn cầm quyền hà khắc từ xưa đến nay.
***
Vài điều về thơ Bút Tre:
Bút Tre tên thật là Đặng Văn Đăng, quê xã Đồng Lương, huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ, sinh năm 1911, mất năm 1987. Ông đỗ Tú tài Triết học thời Pháp thuộc, viết báo ký tên Lục Y Lang.
Ông tham gia kháng chiến như bao người Việt thời đó, được cử làm công tác ngoại giao với chức Bí thư thứ 2 sứ quán Việt Nam tại Rumani. Do thể hiện sự bất bình với chính sách vong bản của chế độ, ông bị đưa về nước làm Trưởng ty Văn hoá tỉnh Phú Thọ.
Ông nói về thơ của mình:
'Bút Tre là để đối chọi với Bút Sắt. Tại sao phải đối chọi? Vì một thời các nhà thơ 'bút sắt' của ta đều làm thơ nghiêm túc quá, ít chất thi sĩ lãng tử. Làm thơ, làm nghệ thuật là 'sự chơi' ở đời, mà chẳng ai biết chơi cả. Những 'nhà thơ nhà nước' ấy nói năng thưa dạ chỉn chu, thơ văn nghiêm như báo cáo, từ chương, không ai dám sáng tạo ra điều gì về hình thức và nội dung ngoài những điều trên dạy, sách dạy. Thậm chí có ai làm khác đi, làm mới đi câu thơ Việt thì lập tức các nhà thơ 'bút sắt', các nhà phê bình xúm nhau lại để 'giáo dục', 'uốn nắn' nhằm 'lập lại trật tự'.
Bút Tre cho rằng thơ 'nghiêm như họp' ấy làm sao vào được lòng dân, nên ông quyết 'tuyên chiến' - 'thách thức' đối với loại thơ 'bút sắt' bằng lối tu từ chọc cười tài hoa của mình. Và ông đã thành công ngoài sức tưởng tượng, đến độ có một nhà thơ 'bút sắt' viết bài in trên báo, công khai ca ngợi Bút Tre:
'...Gieo vần gẫy nửa nhịp câu
'Giữa dòng bạt mạng ngắt câu ngang phè
'Mà sao ai cũng thích nghe
'Cứ nghe là biết Bút Tre, lại cười
'Bao nhiêu Bút Sắt mòn rồi
'Mai sau còn mãi với đời Bút Tre.
Được biết 20 năm sau khi thơ Bút Tre xuất hiện, tạo nên trào thơ Bút Tre, khiến Nguyễn Tuân - một nhà văn chơi chữ rất độc đáo - đã nhắc nhở các nhà nghiên cứu thi ca cần phân tích về hiện tượng Thơ Bút Tre.
Thời gian làm trưởng ty, ông khuyến khích sáng tác cởi mở, bản thân ông cũng làm những bài thơ thể hiện bề ngoài sự cười cợt vui đùa, nhưng thực chất ông đã ví các thứ của chế độ chẳng khác gì những thứ tục tĩu, theo kiểu người bình dân Việt nơi thôn quê thường ví von so sánh:
-'Liên hoan có một nải chuồi (chuối),
'Ra về nhớ mãi cái 'buồi' (buổi) hôm nay.
-'Anh đi công tác Pơ - Lây,
'Cu dài dằng dặc, biết ngày nào ra.
'Còn em em vẫn ở nhà,
'Cửa mình (nhà) em mở, người ra kẻ vào.
Thơ Bút Tre nhạo báng những người nước ngoài theo chế độ, chẳng vì 'Cụ Hồ' mà vì gái Việt dễ thương, đảm đang. Và Hồ Chí Minh bị vạch mặt là 'cụ' của những con dê xồm người nước ngoài:
-'Một ông người Ốt - tra- lây (Australia),
'Một ông đích thị là Tây - bán - nhà (Tây Ban Nha)
'Một ông ở xứ Buôn - gà (Bungarie)
'Cả ba ông ấy đều là con dê (con rể)
'Cùng nhau có một lời thề
'Làm con dê cụ (con rể Cụ), không về bên Tây.
Lối làm thơ Thơ Bút Tre được các thế hệ đi sau bắt chước biến hóa:
-'Năm năm dân đã lắng nghe,
'Một Bút Tre thành vạn Bút Tre các làng.
-'Thu Vân ngâm thơ Thu Bồn,
'Thu Bồn cảm động, rờ... tay Thu Vân.
***
Ca dao thường làm bằng thể thơ lục bát riêng biệt của người Việt, rất giàu âm điệu để khi ngâm - ru - hát - hò - đọc có nhiều nhạc điệu trầm bổng du dương truyền cảm. Rất nhiều thơ lục bát của các thi sĩ được phổ nhạc, thành những tác phẩm tân nhạc tuyệt vời, cho thấy thơ lục bát giàu âm điệu và thăng hoa ra sao.
So với các thể thơ của Tây và Tàu chỉ có vần ở cuối câu (cước vận) nên tối đa 4 câu chỉ có 4 vần, thể thơ lục bát của Việt Nam có cả vần ở giữa câu (yêu vận) nên 4 câu có tới 6 vần.
Ngoài ra còn có những bài ca dao làm theo lục bát biến thể, nói lối... thể hiện tinh thần phóng khoáng của tâm hồn Việt, khi cần diễn tả các trạng thái tâm lý, tình cảm... một cách phong phú; không gò bó hồn thơ vào các khuôn khổ hẹp hòi với các luật bằng trắc cứng nhắc như thơ Tứ tuyệt, Thất ngôn Bát cú... của Trung Hoa.
Nếu Khổng Tử cho rằng:
'Hưng khởi cái ý chí là ở Thi, sửa sang phẩm cách cho đứng đắn là ở Lễ, điều hòa tính tình cho hoàn toàn là ở Nhạc'
thì ca dao Việt đã bao hàm được cả 3 điều Thi - Lễ - Nhạc, nên mang tính giáo dục truyền cảm hồn nhiên, hơn hẳn những bài giảng dạy giáo điều, quá lý tưởng xa rời thực tế và khô khan của các kinh sách - phần lớn do các tu sĩ viết ra để chế ngự tín đồ.
Do vậy, có thể nói là người Việt từ xa xưa đã hình thành một nền 'Giáo Dục Truyền Khẩu' qua Cổ Tích & Ca Dao & Tục Ngữ rất uyên bác, vần điệu dễ nghe - dễ nhớ - dễ hiểu... đạt trình độ mà Lão Giáo từng đề cao là 'Đạo Khả Đạo Phi Thường Đạo'.
Đây chính là chủ trương của chúng tôi khi viết Khởi thảo Kinh Thi Việt Nam, nhằm khai phá 3 yếu tố 'Thi - Lễ - Nhạc' nơi các bài học cao đẹp về nhân luân, ẩn tàng trong một số bài ca dao & tục ngữ mà chúng tôi có thể am hiểu phần nào, phân tích diễn giải hầu rộng đường nghiên cứu mai hậu.
Hiện vấn đề giảng dạy Tiếng Việt ở hải ngoại theo chương trình cũ của Việt Nam Cộng Hòa qua các sách Dương Quảng Hàm... đắm chìm trong Tam Giáo - cũng như ở trong nước do Cộng sản Việt Nam chủ trương tha hóa theo chủ nghiã Marx - Lénine, đều xa rời cội nguồn.
Do vậy việc lý giải rộng rãi các ý tình truyền thống dân tộc ẩn tàng trong Ca Dao, Tục Ngữ, Câu Đố và các trò chơi dân gian kèm theo, là cần thiết cho việc phục hồi nền Văn Hóa & Giáo Dục Cổ Truyền Việt Nam.
Muốn phục hồi hữu hiệu, thiển nghĩ cần có môn học riêng về Văn Hóa Việt Nam, giảng dạy chuyên về Cổ tích & Tục ngữ & Ca dao từ mẫu giáo đến đại học - tùy trình độ tuổi tác và hiểu biết, hầu có thể giúp người học dễ dàng thấm nhuần sâu xa các giá trị cao đẹp của văn hiến Việt Nam, xây dựng nền tảng tư duy đứng đắn về truyền thống cội nguồn, song song với việc chọn lọc thu nhập các nền văn hóa ngoại lai; mới mong thoát khỏi tình trạng 'văn hóa dây leo' hết theo Tàu, theo Tây, đến theo Cộng sản như bấy nay.
Giờ dạy và học Văn Hóa Việt Nam cần khác với giờ Việt Văn hay Công Dân giáo dục, vì chỉ nên tập trung giảng dạy nội dung và hình thức qua các cách diễn ngâm các bài ca dao thể hiện đậm đà tình ý dân tộc, kèm theo các trò chơi dân gian Việt Nam cổ truyền; tập hát và diễn tả những bài hát về lịch sử của các nhạc sĩ... vào các dịp lễ kỷ niệm Quốc Tổ, danh nhân, địa danh lịch sử... kèm theo các câu chuyện về các ngày lễ này, bằng phương tiện truyền hình, truyền thanh phổ biến.
Người soạn thảo chương trình giảng dậy cần sưu tầm các tài liệu, tận dụng phương tiện truyền hình, truyền thanh hiện đại, đưa các hình ảnh và âm thanh hỗ trợ việc giảng dạy, sẽ rất hấp dẫn, giúp thầy cô không có năng khiếu thi ca vũ nhạc cũng vẫn có thể làm tốt công việc tao luyện nung nấu tâm thức Việt Nam.
Cụ thể hơn, cần có những điã CD, DVD cho mỗi bài học, sẽ thích hợp với hoàn cảnh giáo dục tân tiến hiện đại. Đầu giờ sẽ mở đĩa giới thiệu các hình ảnh của bài học, tiếp theo là sự phân tích dẫn giải của người dạy, các phát biểu của người học, kết thúc bằng một trò chơi hoặc một bài hát có ý tình gần gũi với bài học.
Lối giáo dục cá nhân của Việt Nam thường ít nêu các điều tốt đẹp cao xa như các tôn giáo - khi các tôn giáo chủ trương bắt phải tuân thủ ràng buộc vào các giáo điều được coi là tốt, nên khó theo; còn ca dao Việt Nam có chủ trương 'không xấu cũng đủ tốt' - nêu lên các hình ảnh bình thường trong cuộc sống trần ai, vạch ra cái xấu để mọi người thấy mà tránh, nên dễ làm theo.
Quan niệm về Người Thầy
Người Việt từ xa xưa đã biết coi trọng Người Thầy:
'Không Thầy đố mày làm nên.
Và hết sức kính trọng các vị Thầy:
'Trọng Thầy mới được làm Thầy.
Tuy nhiên, khác với Người Trung Quốc quá ư đề cao bậc thầy, đến mức độ bất kể phải trái ra sao:
'Nhất tự vi Sư,
'Bán tự vi Sư.
Rồi tôn Khổng Tử là bậc Thầy muôn đời:
'Vạn thế Sư Biểu.
bất di bất dịch, trái với lý lẽ biến đổi tuần hoàn; thường giới hạn sự đúng sai vào từng khoảng không gian và thời gian nhất định, như Dịch Kinh đã diễn giảng.
Người Việt cho rằng ai giỏi đều đáng để học hỏi, tôn trọng, dù có theo học hay không, nên dùng chữ 'thầy' phổ biến chỉ những ai tài giỏi.
Cụ thể như: Thầy Giáo - Thầy Thuốc - Thầy Kiện - Thầy Bói - Thầy Cúng - Thầy Tu...
Một số nơi ở Bắc Việt còn gọi Cha là Thầy, Mẹ là Đẻ.
Người Việt coi việc học không chỉ từ Người Thầy, mà còn có thể từ Người Xung quanh:
'Học Thầy không tầy Học Bạn.
Do vậy mà Người Việt đã học được rất nhiều điều từ Tục Ngữ, Ca Dao, Cổ Tích - một kho tàng kiến thức sâu rộng, giúp ở tuổi nào hay trình độ nào cũng có thể rút ra những bài học cao thấp khác nhau.
Cụ thể, trong việc giáo dục ở các nhà trường Việt, rất nhiều câu Tục Ngữ, Ca Dao được dùng làm đề tài luận văn cho học sinh bình giải...
Bài Cây Sen
Nếu Nho giáo lấy hình tượng Cây Trúc làm biểu tượng cao đẹp rất mực cho Người Quân Tử, nhưng xa rời nhân thế; thì người Việt từ xa xưa đã chọn Cây Sen làm biểu tượng cho Người Việt Nam bình thường, chan hòa trong cuộc sống trần ai; để rồi sáng tác nên bài Cây Sen, được đại chúng truyền tụng trau chuốt qua bao đời, trở thành bài ca dao hoàn hảo về nội dung cũng như hình thức; xứng đáng là một mẫu mực tiêu biểu ưu việt về văn chương, văn học, văn hóa tư tưởng truyền thống Việt Nam.
Chúng tôi xin được phân tích hình thức và nội dung bài Cây Sen của ca dao Việt Nam, theo lối giảng luận điển hình, hầu phần nào có thể giúp thêm tài liệu và phương pháp, để các nhà giáo dục thuận tiện tham khảo ứng dụng, khai triển khi giảng dậy:
'Trong đầm gì đẹp bằng sen,
'Lá xanh, bông trắng, lại chen nhị vàng.
'Nhị vàng, bông trắng, lá xanh,
'Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
A/ Về Hình thức:
a/ Từ ngữ: Bài thơ cho thấy sự giàu tình ý của ngôn ngữ Việt, khi một bài thơ 4 câu 28 chữ, nhưng nhờ nghệ thuật hồi văn, điệp ngữ nhằm nhấn mạnh tình ý, chỉ cần dùng có 21 chữ để diễn tả, mà vẫn tinh tế, thanh thoát, trang trọng một cách bác học.
Điều này thuận tiện khi diễn dịch ra ngoại ngữ để giảng dạy ở các trường dạy tiếng Việt tại hải ngoại, giúp dễ học, dễ nhớ, dễ cảm nhận các ý tình thanh cao một cách trực quan và giản đơn.
Đây cũng là một bài ca dao khá hiếm hoi, khi dùng toàn chữ nôm na của Việt Nam, mà vẫn đạt được sự diễn tả rất uyên bác và trang trọng, không kẻ nào còn dám xách mé chê 'Nôm na là cha mách qué'. Cụ thể như dùng chữ 'bông' của Việt Nam, thay cho chữ 'hoa' có nguồn gốc từ chữ Hán, mà người Miền Bắc chịu ảnh hưởng dùng nhiều đến trở thành thông dụng... Qua chi tiết này, đây có thể là một bài ca dao cổ xưa, cách nay nhiều trăm năm?
b/ Bố cục: Ngày xưa người Việt chẳng thể có phi cơ để nhìn từ trên cao xuống cảnh vật như hiện nay, vậy mà bài Cây Sen đã khởi đi bằng cái nhìn từ trên cao bao quát cả hồ sen, rồi như dùng ống kính máy quay phim zoom vào một cây sen nổi bật, soi rọi từ hình ảnh đến màu sắc, đưa ống kính di động từ ngoài vào trong rồi mới từ trong ra ngoài, nhằm diễn tả lần lượt những ý tình cao đẹp trong đời sống vật chất và tinh thần của người dân giả bình thường, qua 3 màu sắc xanh - trắng - vàng tiêu biểu cho các ý nghiã cao cả khác nhau, thắm đượm các ý tình cao đẹp khác nhau, rất độc đáo của cây sen.
B/ Về Nội dung:
Chỉ trong 4 câu thơ ngắn gọn với âm điệu trầm bổng nhịp nhàng của thể thơ lục bát, ứng dụng tuyệt vời các nghệ thuật điệp ngữ, hồi văn, bài ca dao đã gợi được những ý tình cao đẹp của cuộc sống người Việt, qua hình ảnh một cây sen bình thường rất phổ biến trong các đầm hồ công cộng ở Việt Nam, từ thành thị đến thôn quê, từ cung vua phủ chúa đến xóm làng đồng ruộng xa gần.
-Câu 1 khẳng định trong các đầm hồ tại Việt Nam, cây sen là cây đẹp nhất, không có cây nào sánh bằng: 'Trong đầm gì đẹp bằng sen'.
-Câu 2 giới thiệu hình ảnh cây sen từ ngoài vào trong, từ lá - hoa - nhị, để miêu tả không gian xã hội xanh tươi giữa thiên nhiên (lá xanh), gia đình có hoàn cảnh phát huy cuộc sống vật chất riêng biệt thanh cao (bông trắng), cá nhân biểu hiện tấm lòng vàng 'đồng bào' cao qúy của truyền thống Rồng vàng (nhị vàng).
-Câu 3 giới thiệu hình ảnh cây sen từ trong ra ngoài, nhắc ngược lại câu 2 để mô tả cuộc sống tinh thần cao qúy như vàng mười, của các tấm lòng vàng cá nhân - xây dựng nên nền nếp gia đình thanh bạch, tạo cảm nghĩ về các ý tình thanh cao nơi một xã hội thôn dã có môi trường sống xanh tươi, hiền hòa - chẳng khác gì các hô hào của tổ chức Green Peace ngày nay.
-Câu 4 dùng cái xấu để nhắc nhở một cách bóng bẩy về cái tốt, khi nói về mùi hôi tanh của bùn, để gợi sự liên tưởng đến mùi thơm thanh nhã của hoa sen; theo tinh thần truyền thống giáo dục 'Không Xấu là Tốt', và hoà đồng trong tình đồng bào không phân biệt tốt xấu, để cùng nhau phát triển cuộc sống đời thường vốn dĩ tốt xấu lẫn lộn.
Điều quan trọng nơi Cây Sen là 'không gần mực thì đen' & mà giúp tha nhân 'gần đèn thì sáng'; khác hẳn câu răn dạy tầm thường thể hiện sự ích kỷ 'Gần mực thì đen - Gần đèn thì sáng' của Nho Giáo, vẫn bị coi là của Việt Nam bấy lâu nay?!
Nếu người quân tử của Trung Quốc chỉ có thể 'hoà nhi bất đồng' cách biệt, thì nhân sinh quan của người Việt Nam là 'hòa đồng' giúp nhau hết mình trong tình nghiã 'đồng bào' theo lời dạy sống 'chung & cùng' của Mẹ Âu Cơ ngay từ khi lập quốc:
-'Bầu ơi, thương lấy Bí cùng,
'Tuy rằng khác giống, nhưng chung một giàn.
-'Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
'Người chung một nước phải thương nhau cùng.
Cả 4 câu đã mô tả một cách cô đọng nhưng rạng rỡ, mượn hình ảnh cây sen để nói về hình ảnh từ đời sống vật chất đến tinh thần của người dân Việt, tuy chân lấm tay bùn nơi đồng ruộng vì sinh kế, nhưng vẫn có tinh thần sống ung dung tự tại, thanh cao đầy thi vị trong làng xóm, giữa đồng nội, khác hẳn cuộc sống tha hóa bon chen chốn thị thành.
Trong sách Y học Cổ truyền của Danh y Tuệ Tĩnh, có viết về giá trị y dược của cây sen, như sau:
-Hạt Sen: Vị ngọt, tính mát không độc, ăn sẽ sống lâu, bổ trung, ích khí, yên tâm vị, chỉ lỵ, thu liễm tinh khí, giải phiền nhiệt, ăn nhiều tăng tuổi thọ.
-Ngó Sen: Vị ngọt, tính mát, không độc, kiêm cả bổ và tả, thanh nhiệt, trừ phiền, giải say rượu, chỉ huyết, tan các chất bẩn đọng lại.
-Nhị Sen: Vị đắng, tính hàn, không độc, trị phiền trong lòng, huyết khô sau khi sinh đẻ, chỉ thổ huyết, hoắc loạn, di tinh và phiền nhiệt.
-Gương Sen: Vị đắng chát, tính hơi ấm, không độc, trị bụng trướng đau, iả chảy, băng huyết, mất huyết.
-Lá Sen: Vị đắng, tính bình, không độc, trị tâm phiền, chữa các bệnh thai sản, chữa lở ghẻ, đậu mùa, chỉ huyết, cố tinh, ích nguyên khí của dạ dày.
Như vậy toàn thể cây sen bao hàm sự tốt lành, không độc hại. Ngay vị đắng cũng là vị thuốc 'dã tật' để gợi ý thành lời khuyên đanh thép:
'Thuốc đắng dã tật,
'Sự thật mất lòng.
Người dân Việt không chỉ coi cây sen như một mẫu mực thanh cao trong đời sống tinh thần, mà trong cuộc sống vật chất cũng coi cây sen như một thực phẩm trân qúy hảo hạng hơn nhiều thứ khác, như dùng nhị sen ướp trà - hạt sen làm mứt, làm nhân bánh, tiềm gà vịt, nấu chè - ngó sen làm dưa - củ sen nấu các món ăn chay, mặn - lá sen che nắng, gói cốm và các thứ xôi làm tăng hương vị thơm ngon...
Phải chăng từ hình ảnh từng cánh hoa sen rụng rơi nổi trôi trên mặt nước, mà người Việt đã sớm bắt chước làm ra những con thuyền đan bằng tre mang hình cánh hoa sen - khác với thuyền gỗ độc mộc của người dân các nước khác?
Nhiều thi sĩ Việt đã mượn hình ảnh của sen tả cảnh, tả tình một cách thi vị, thấm nhuần tình tự dân tộc:
-Tản Đà:
'Lá sen tàn tạ trong đầm,
'Nặng mang giọt lệ âm thầm khóc hoa.
-Nguyễn Bỉnh Khiêm:
'Thu ăn măng trúc, Đông ăn giá,
'Xuân tắm hồ sen, Hạ tắm ao.
-Đoàn Thị Điểm:
'Thử tính lại diễn khơi ngày ấy,
'Tiền sen này đã nẩy lần ba.
-Nguyễn Du:
'Dẫu lìa ngó ý, còn vương tơ lòng.
So với hình ảnh cây trúc của Nho giáo dùng để hình dung người Quân tử, thì thấy cây trúc chỉ mọc được ở chốn cao ráo thanh sạch, giữ được thanh cao là điều không mấy khó khăn. Trong khi cây sen của Việt Nam mọc giữa chốn bùn lầy nước đọng hôi tanh, mà vẫn giữ được sự trong sáng, thanh cao, lại còn có thể tỏa hương thơm ngát giữa bùn lầy tanh hôi, mới là điều khó khăn vô vàn.
Hai triết lý giáo dục Hoa - Việt như thế cao thấp khác hẳn nhau về lý thuyết cũng như thực hành? Vậy mà bấy nay không ít người học thức vẫn nghĩ rằng Nho giáo giúp người Việt phát huy đạo đức - mà không biết rằng chính Nho giáo đã khiến không ít kẻ có học trở nên ích kỷ, mất đi nhiều nhân tính dấn thân hài hòa hồn nhiên của loài người, khi cuộc sống rất cần sự hòa đồng, liên kết?!
Niềm tự hào này còn được người bình dân Việt bày tỏ trong các câu nói về vấn đề tu thân theo tín ngưỡng cổ truyền 'thờ ông bà' trong nhà - thờ 'địa linh nhân kiệt' chốn đình chung nơi xóm làng, giống như cây sen ngoài ao hồ :
-'Tu đâu cho bằng tu nhà,
'Thờ cha, kính mẹ mới là chân tu.
-'Thứ nhất là tu tại gia,
'Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa.
Và như vậy thì câu:
'Gần mực thì đen,
'Anh em bạn hữu phải nên chọn người.
'Những người lêu lổng chơi bời,
'Cùng là lười biếng ta thời tránh xa.
là do giới Nho sĩ làm để khuyên dạy trẻ theo chủ trương 'Quân tử hòa nhi bất đồng' - chỉ lúc bất đắc dĩ mới nhẫn nhịn chung sống với bọn tiểu nhân, hay kẻ bất đồng quan điểm; không đúng với quan niệm chung cùng hòa đồng, cảm hóa hầu hòa hợp, như quan điểm 'đồng bào' của Mẹ Âu Cơ, được phát triển thân thương khi sống 'chung & cùng' nhau, qua các câu ca dao:
-'Bầu ơi thương lấy bí cùng,
'Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
-'Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
'Người chung một nước phải thương nhau cùng.
Vì cho rằng mọi sự tương tranh đều bất lợi cho cả hai phiá, do dù ai có yếu kém đi mấy vẫn có thể phản ứng bất ngờ bất lợi:
-'Cái cò mày mổ cái tôm,
'Cái tôm quắp lại, lại ôm cái cò.
'Cái cò mày mổ cái trai,
'Cái trai quặp lại, lại nhai cái cò.
Nên kẻ thắng hay bại đều thua thiệt:
-'Không đánh được người mặt đỏ như vang,
'Đánh được người mặt vàng như nghệ.
Cũng như quan niệm ai cũng có cái xấu riêng, chẳng ai hoàn hảo hơn ai, nên đừng chỉ trích kẻ khác:
-'Con Chó chê Khỉ lắm lông,
'Khỉ lại chê chó ăn dông ăn dài.
'Lươn ngắn lại chê Trạch dài,
'Thờn bơn méo miệng chê Trai lệch mồm.
Đây chính là lối giáo dục nêu cái xấu, cái không tốt cho mọi người biết để tránh. Khác hẳn với các tôn giáo, thường chỉ nêu cái tốt theo chủ quan của riêng mình, chưa hẳn là tốt lành miên viễn, nhưng lại bắt ai nấy phải triệt để tuân theo!
***
Ngay từ nhỏ, tuổi trẻ Việt Nam cũng đã được gợi ý về sự liên hệ 'dây mơ - rễ mái' rất chằng chịt giữa mọi người, qua cách xưng hô bà con cô bác tùy theo tuổi qua mấy bài đồng dao:
-'Bí Ngô là cô Đậu Nành,
'Đậu Nành là anh Dưa Chuột,
'Dưa Chuột em ruột Dưa Gang,
'Dưa Gang cùng làng Dưa Hấu,
'Dưa Hấu là cậu Bí Ngô,
'Bí Ngô là cô Đậu Nành...
-'Kỳ Đà là cha Cắc Ké,
'Cắc Ké là mẹ Kỳ Nhông,
'Kỳ Nhông là ông Kỳ Đà,
'Kỳ Đà là cha Cắc Ké...
Bấy bay chúng ta thường cho là 'Người trong một nước', là làm hạn hẹp tình ý bao la của câu ca cao, khi không còn thích hợp với hiện nay lúc nhiều người Việt phải tỵ nạn xứ người, nhưng vẫn 'chung một nước'?
Đặc tính 'chung' này mô tả qua bài đám tang Con Cú, được các con vật khác giống nòi cùng chung lo hậu sự:
-'Con Cú chết rũ trên cây,
'Bồ Câu dở sách xem ngày làm ma.
'Cà Cuống uống rượu la đà,
'Con Cua trong lỗ chạy ra chia phần.
'Chào Mào đánh trống hội quân,
'Chim Sẻ mặc quần, vác mõ đi rao.
Bài đồng dao này dạy trẻ tinh thần cộng đồng không phân biệt nòi giống, gắn bó giúp đỡ nhau rất mực, khai triển sâu rộng câu 'tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn':
Con chim Cú với người Tây phương được qúy trọng, vì tiêu biểu cho sự uyên bác. Với Việt Nam, chim Cú bị ghét bỏ, thể hiện qua những câu như:
-'Mắt Cú Vọ
-'Hôi như Cú.
-'Cú đọ với tiên.
-'Cú dòm nhà bệnh.
-'Cú kêu ra ma.
-'Cú dòm nhà,
'Ma đến cửa.
Nhưng khi Con Cú già cô độc chết rũ trên cây cao, vẫn được được chim Bồ Câu trân trọng lấy sách xem ngày tốt xấu làm đám ma, không chôn theo kiểu vùi dập vội vàng qua quít. Cà Cuống thể hiện sự buồn rầu trước cái chết của người già cô đơn, qua việc uống rượu giải sầu. Con Cua thể hiện hình ảnh của những người ngang bướng (đi ngang về tắt, ngang như cua...) bấy nay tuy sống cách biệt, nhưng không vì thế mà bàng quan, từ trong hang lỗ chạy ra chia phần công việc tang lễ cho các con vật 'khác giống nhưng chung một giàn'. Chào Mào là loài chim sống về ban ngày, nhưng không vì thế mà không ngó ngàng tới Con Cú là loài chim đêm, đánh trống gọi đồng đội tới tham gia tang lễ. Chim Chào Mào có cái mào trông giống như một thứ mũ của người lính, từng được gọi là mũ 'chào mào', nên mang tính cách của giới quân sự, cũng tham gia vào việc tang, thể hiện tình quân dân kết đoàn. Chim Sẻ bị người Việt coi là đứa tiểu nhân, nên khi đi sứ Tàu, Mạc Đĩnh Chi từng xé bỏ tấm hình vẽ Chim Sẻ đậu trên cành Trúc, cho là không thể vẽ đứa tiểu nhân đứng trên người quân tử. Vậy mà kẻ bị coi là tiểu nhân nay cũng biết trang trọng 'mặc quần áo chỉnh tề', khi đi rao về ngày giờ địa điểm cử hành tang lễ, để mọi người biết mà đến - một hình thức như cáo phó hiện nay...
Một bài tương tự thể hiện sự tương trợ giữa những kẻ khác giống nòi, nhưng có môi trường sống gần gũi chung đụng nhiều hơn:
-'Cóc chết bỏ Nhái bồ côi,
'Chẫu ngồi chẫu khóc: Chàng ôi là chàng!
'Ễnh ương đánh lệnh ầm vang,
'Tiền đâu mà trả nợ làng Ngóe ơi!
-'Con Cò kẹt giò mà chết,
'Con Quạ đi chợ mua nếp làm chay.
'Chim Cu báo cả làng hay,
'Chào mào đội mũ đọc bài tế văn.
'Chèo bẻo vừa khóc, vừa lăn,
'Một đàn chim sẻ đội khăn đưa cò.
Tất cả thể hiện tinh thần nhân đạo của người Việt đối với cái chết, coi 'nghiã tử là nghiã tận', nên quên hết mọi điều xấu xa cách biệt, không hề ghét bỏ hay hận thù.
Điều này khác hẳn việc Gia Long ảnh hưởng lối trả thù của Tầu đào mồ nhà Tây Sơn, Cộng sản Việt Nam ảnh hưởng Nga Hoa phá các nghiã trang Mạc Đĩnh Chi, Biên Hòa... lấy cớ lập công viên bứng hết mồ mả của nhiều nghiã địa, từ sau năm 1954 ở Bắc Việt đến sau năm 1975 ở Nam Việt.
Việc một số tổ chức và cá nhân người tỵ nạn ở hải ngoại, ngăn cấm một ngôi chùa ở Mỹ, không cho cầu siêu cho Cựu Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, thể hiện sự đố kỵ nhỏ mọn, kém cỏi, trái với tinh thần truyền thống, qua các bài ca dao, đồng dao giáo dục nhân luân trẻ con cổ truyền Việt Nam?!
Ngoài ra, trong cổ tích Lưu Bình & Dương Lễ của Việt Nam, cho thấy hai người bạn này chung sống đã cưu mang, giúp nhau, thể hiện sự 'không tránh xa' người xấu như Hoa Sen trong bùn, mà còn có ý thức trách nhiệm giúp nhau có cuộc sống tốt trở lại.
Tư tưởng & tình cảm này tới gần đây mới được các đạo đức gia Tây phương đề cao, qua các việc dấn thân vào các nơi bệnh tật, các xứ chậm tiến khổ ải xa xôi... để cứu khổ, cứu nạn, khi bình thường cũng như trong thiên tai, nhân tai.
Bài Ao Vườn
Muốn tìm hiểu cuộc sống ung dung tự tại như hoa sen của người dân Việt nơi thôn dã ra sao, chúng ta cần nghiên cứu thêm nơi bài ca dao Ao Vườn sau đây:
'Ao ta, ta thả cá chơi,
'Hồ rộng nuôi vịt, vườn khơi nuôi gà.
'Quanh năm khách khứa trong nhà,
'Ao vườn sẵn đó, lọ là tìm đâu.
Nội dung ý tình trong bài ca dao này còn được thi sĩ Nguyễn Khuyến mô tả đầy đủ hơn, trong bài thơ 'Bạn đến chơi nhà':
'Đã bấy lâu nay bác tới nhà,
'Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
'Ao sâu, nước cả, khôn chài cá,
'Vườn rộng, rào thưa, khó đuổi gà.
'Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
'Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
'Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
'Bác đến chơi đây, ta với ta.
Tại vùng đồng quê các tỉnh Nam Định, Ninh Bình - nơi các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần phát tích và xây dựng cơ đồ, phát huy tinh thần tự chủ và khả năng chiến thắng nhiều cuộc xâm lăng lớn nhỏ của các nước lân bang, thực hiện sự độc lập, chính là nhờ nếp sống tự do & dân chủ, tự lập & tự cường từ vật chất đến tinh thần của người dân Việt Nam ở các nơi này, ngay từ trong gia đình, ra đến thôn làng; hình thành những 'pháo đài nơi nông thôn' trong lũy tre làng của Người Việt - một thứ Ấp Chiến Lược tự nhiên - chẳng những thành công trong việc chinh chiến bảo vệ lãnh thổ, mà còn thành công trong cả việc bảo vệ nền văn hóa cổ truyền, trước sự xâm nhập ào ạt của các nền văn hóa ngoại lai mạnh mẽ nhất thế giới, được các triều đại và chế độ thống trị tuân thủ rất mực, nhằm củng cố quyền hành cả mấy ngàn năm qua.
Sở dĩ người Việt có thể nói được câu:
'Phép vua thua lệ làng
là do họ đã có thể tự mưu sinh, không cần đến sự giúp đỡ của các nhà cầm quyền. Nói khác đi, sở dĩ Cộng sản chế ngự được dân chúng, vì họ đã tìm cách chiếm đoạt kiểm soát đời sống vật chất của dân chúng, qua kế hoạch hộ khẩu và tem phiếu lương thực cùng chủ trương 'Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ', lừa dân chúng vào cái bẫy 'ông chủ bù nhìn', rồi bắt tung hô 'Đời đời nhớ ơn'?!
Chúng tôi xin được diễn tả một phần nếp sống độc lập ung dung tự tại như cây sen của người dân quê Việt ở vùng Nam Định, Ninh Bình... mà chúng tôi có dịp cùng chung sống trong thời gian tản cư sau năm 1945.
Đây là vùng đồng chiêm ven sông Đáy, nên vào mùa hè bị nước lụt mênh mông, từ làng nọ qua làng kia nhiều nơi phải dùng thuyền.
Vì vậy, muốn dựng một ngôi nhà đủ cao ráo không bị ngập trong mùa nước lụt hàng năm, người ta phải đào đất thành ao ngay gần nơi dựng nhà, lấy đất này đắp nền nhà cho cao, và trộn đất với rơm trét vách có cốt làm bằng tre, còn mái nhà lợp bằng rạ. Do vậy mà nhà nào dù lớn hay nhỏ, giầu hay nghèo, cũng thường phải đào ngay một cái ao nước trong khu đất làm nhà của mình, lấy ngay đất này làm vật liệu xây dựng nhiều thứ trong căn nhà - như ông Đồ Rau dùng làm bếp nấu ăn, cũng làm bằng thứ đất này luôn. Thứ đất sét tốt hơn được nung thành nồi, niêu, bát, đĩa...
Tưởng cũng nên biết, thường thường mỗi khi dựng nhà mới, người Việt nơi thôn quê dù giàu hay nghèo còn luôn tìm cách trồng 3 thứ cây Mít, Xoan, Tre quanh nhà, để vài chục năm sau khi con khôn lớn lập gia đình, có sẵn vật liệu làm nhà mới cho con một cách thuận tiện: Cây Xoan thân thẳng, chất gỗ đắng, dùng làm cột kèo nhà không sợ bị mối mọt ăn. Cây Mít gỗ mềm, dùng đóng bàn ghế tủ giường rất bền. Cây Tre dùng đan lát làm các dụng cụ sinh hoạt, nông nghiệp, ngư nghiệp, từ cây tăm, đôi đũa, rổ rá, nơm vó, giường chõng đến thuyền bè, phên liếp che chắn nắng mưa, cửa cổng chống trộm cướp...
Từ nguyên do kiến trúc này, người dân Việt đã hình thành được một hệ thống kinh tế tự lập khá hoàn hảo, qua việc bố trí các hoạt động chăn nuôi, trồng trọt, lập các kho chứa nhiên liệu, thực phẩm dự trữ đủ dùng quanh năm ngay trong khoảnh đất quanh nhà.
Cho dù sống giữa mọi người, mà mỗi người vẫn cố gắng tự tạo cuộc sống tự lập & tự túc trong một khoảng không gian ao vườn dù to lớn hay nhỏ hẹp, theo kiểu An Tiêm khi bị đầy ngoài ra hoang đảo, cũng như những gì anh chàng Robinson của Tây phương thực hiện giữa hải đảo hoang vu:
-Nơi cái ao, thì ngoài việc dùng để tắm rửa, giặt giũ, nuôi cá, còn thả bèo nuôi heo, thả các loại rau muống, rau rút để ăn và bán. Bên bờ ao trồng các loài cây ưa nước như dàn mướp, dàn bàu, cây ổi, cây khế, cây mít, cây cam, cây quít, bụi chuối... để lấy lá ăn, quả cúng và cũng là nguồn dinh dưỡng về glucide, protide, dùng không hết đem bán lấy tiền mua các thứ vật dụng khi cần.
-Ngôi nhà bình thường phổ biến có 3 gian 2 trái, gian giữa kê ban thờ và bộ bàn ghế tiếp khách, 2 gian kế hai bên kê giường ngủ nếu nhà đông người. Còn 2 trái ở hai đầu nhà, một trái có vách vây kín làm phòng ngủ cho vợ chồng, chỗ cất giữ quần áo và một số lương thực dự trữ; một trái để trống, có thiết kế cối giã gạo, cối xay lúa. Trên nóc có các dàn tre bắc ngang để gác các vật dụng làm ruộng, đánh cá, và chế biến thóc thành gạo như sàng, nia, thúng...
Bếp làm liền với nhà theo góc vuông thước thợ, nóc bếp cũng là nơi cất giữ một số đồ đạc và thực phẩm cần nơi khô ráo.
Phiá cận kề gần bếp là chuồng heo, chuồng trâu, có kèm theo chuồng nuôi gà vịt, vừa lấy thịt ăn và đem bán, vừa lấy phân bón ruộng, bón cây ăn củ và cây rau trong vườn.
-Khu vườn quanh nhà được trồng các loại rau củ, các loại cà, mùa nào thức ấy, để quanh năm có thức ăn tươi, ăn hết luống rau này đến luống rau khác, ăn không hết mới hái đem ra chợ bán. Cây đậu phọng là nguồn lipide - dầu thực vật dùng để ăn và thắp sáng. Người Việt còn sáng tạo ra cách lưu giữ thức ăn thừa lâu dài một cách khôn ngoan, là muối một số loại rau quả thành dưa, chế biến một số cá tôm cua thành mắm... Người Pháp từng nghiên cứu bữa ăn của người dân quê Việt Nam, tìm thấy trong các loại rau thơm có nhiều vị thuốc, trong dưa có nhiều vitamine C - trong nước mắm có nhiều chất đạm - trong cơm có nhiều chất đường nên ngày nay người bị bệnh tiểu đường mới phải kiêng cữ ăn ít cơm... Các thứ này với không khí trong lành của ruộng đồng, đã giúp người dân quê quanh năm ngày tháng làm việc nặng nhọc, giảm được nhiều mệt mỏi, chống nhiều thứ bệnh tật. Ngày nay khi các nước tư bản giàu có nhận ra sự nguy hại của việc ăn thịt quá nhiều, tìm đến các món ăn có nhiều rau quả... thì món ăn Việt Nam đã nhanh chóng được tán thưởng - tiếc rằng chưa được các chuyên gia về ẩm thực phổ biến một cách khoa học?!
-Một cái sân nhỏ ngay giữa mặt trước của nhà và ao, dùng để phơi thóc và tạo không khí thoáng đãng về tâm sinh lý học, một đầu sân phiá đối diện với cổng ra vào, là những đống rơm rạ lớn cao chất ngất mang từ ruộng về, đủ dùng để nấu ăn quanh năm. Bên trong đống rơm còn là nơi cất dấu lúa, chỉ dùng tới khi thóc gạo cất trong nhà đã vơi, đống rơm đã đun gần hết vào gần vụ gặt hái mới...
Tất cả được trồng tre bao quanh như một hàng rào kiên cố xanh tốt bốn mùa, vừa che chắn gió bão, chống trộm cắp, vừa cung cấp măng để ăn, và thân tre là thứ vật liệu đa năng vô cùng hữu ích của người Việt.
Từ cái tăm tre xỉa răng, đôi đũa, rổ rá đựng vật thực, nơm đó bắt cá, đồ dùng làm ruộng, đan thuyền chuyên chở, làm giường làm chõng... đến xây dựng dựng nhà cửa từ cột kèo, vách đến nóc nhà... đều làm bằng tre. Sắt thép chỉ được dùng rất ít nên gọi là 'lưỡi' mà thôi, như lưỡi cầy, lưỡi cuốc, lưỡi thuổng, lưỡi mai, lưỡi dao, lưỡi cưa, lưỡi đục, lưỡi bào...
Người Việt còn tận dụng hai ống tre đực lớn, chế dễ dàng nhanh chóng thành võ khí Song Sỉ, luồn hai cánh tay vào để thi triển môn võ có sự công thủ kín đáo biến hóa như 'rồng múa - phượng bay', tấn công bằng hai đầu nhọn của ống tre như rồng dùng cả đuôi lẫn đầu lúc lâm chiến, như phượng bay lượn đánh đỡ công thủ rất lợi hại, góp sức đáng kể vào các trận chiến chống xâm lăng, khi sắt thép còn hiếm hoi qúi giá. Với đòn dài, có món vũ khí 'bút chì', được Nguyễn Tuân mô tải trong cuốn Vang Bóng Một Thời.
Nỏ bằng tre từng được coi là thứ vũ khí siêu đẳng do người Việt sáng chế, tạo dựng thành câu chuyện Nỏ thần Kim Quy thời An Dương Vương, với rất nhiều tình tiết trở thành kinh nghiệm và các bài học lâm ly, về chiến tranh tình báo, tình yêu nam nữ và tình yêu nước...
Nhiều nhà họp thành làng, lại được thêm lũy tre của làng bao bọc kiên cố như một thành lũy thứ hai. Trong làng có giếng và ao đình cho các nhà không có ao riêng dùng. Đình là nơi thờ thần Thành Hoàng - người có công với làng hoặc với nước, phục vụ tín ngưỡng dân tộc thờ Địa Linh & Nhân Kiệt. Mỗi dòng họ trong làng đều có Nhà Thờ Họ, để cùng nhau thờ phượng tổ tiên đến 5 đời.
Một số làng hâm mộ Phật Giáo còn chung tiền xây chùa tô tượng, mời một vị sư về tu theo môn phái Đại Thừa, thay dân làng cầu xin sự phù hộ cho cả làng. Các vị sư nam nữ tùy theo tuổi tác được gọi là sư cụ, sư bác, sư ông, sư bà, sư cô, chú tiểu - bản địa hóa một cách thân thương gần gũi, nhưng vẫn có sự tương kính rất mực. Người Việt thường tìm cách đưa ban thờ Mẫu Liễu Hạnh của mình vào một số chùa ở Miền Bắc, để tránh bị các nhà cầm quyền nước ngoài cai trị cấm đoán. Đó cũng là lý do sau này tượng của Hồ Chính Minh được đưa vào đền chùa... khi chế độ này tìm cách đàn áp tôn giáo thô bạo.
-Mỗi làng có chợ họp nơi sân đình rộng rãi, để trao đổi nhau các nhu yếu phẩm thừa thiếu. Chợ của các làng lớn, được nhiều làng nhỏ xung quanh tới mua bán, thường trở thành các phiên chợ chung cho cả vùng, có các hàng quán buôn bán tấp nập, có thêm các thứ hàng hóa phong phú từ tỉnh, huyện buôn về.
-Việc giáo dục của mỗi làng thường do các thày đồ phụ trách dạy lớp vỡ lòng. Ai tỏ ra sáng dạ, có thể học lên cao, mới được gia đình tin tưởng lo cho ăn học nơi các trường ở tổng, huyện, tỉnh, để có thể đi thi đỗ ra làm quan.
-Mỗi khi cần lấy lính hay thu thuế, nhà cầm quyền trung ương chỉ cần sức về các các con số, để Hội đồng làng họp bàn cắt đặt, lo đáp ứng.
Lúc cần họp bàn việc, ban hành lệnh hoặc tin tức gì, có mõ đi khắp làng gõ mõ cho ai nấy lắng nghe, rồi mới rao to các lệnh truyền.
-Nhân sự điều hành việc làng hoàn toàn do dân làng đề cử theo Thiên tước (tuổi tác), hay Nhân tước (bằng cấp, địa vị), tùy theo lệ làng.
**
Hình ảnh ngôi nhà Việt ở thôn quê, với những xếp đặt lớp lang từ ngoài vào trong gần tương tự nhau, nếu giàu tưởng tượng một chút, chúng ta sẽ thấy rất giống với hình ảnh của một bông hoa sen có nhiều cánh vây quanh kín đáo như những bờ tre. Ở giữa đài sen sừng sững như một cái nền nhà cao, mà mỗi hạt sen trông như các chum vại đựng từ nước uống đến vật thực của chủ nhân, để có thể tự túc ăn uống quanh năm, không cần bước chân ra ngoài vẫn ung dung tự tại. Chung quanh là nhị sen tua tuả, tựa như các loại cây rau quả mọc lên tươi tốt quanh vườn.
Chính nhờ lối sống tự trồng tỉa & chăn nuôi khép kín ổn định một cách tự lập, tự cường, từ trong gia đình ra đến làng xóm, mà mỗi nhà có thể duy trì một nếp sống riêng biệt, ít bị phụ thuộc nhờ vả vào bất cứ ai; mỗi làng chọn ra một số người để tự cai quản duy trì những phong tục, tập quán, luật lệ riêng tư theo Hương Ước đặc thù của làng, rất kỷ luật và trật tự được tuân hành nghiêm minh, khiến nhà cầm quyền không thể lấy cớ an ninh xen vào chi phối.
Chính nơi các làng xóm chân lấm tay bùn vì làm ruộng quanh năm, lại là nơi xuất thân của nhiều vị anh hùng - liệt nữ có tinh thần độc lập tự chủ rất cao cả về văn lẫn võ của Việt Nam, làm nên những trang sử chống xâm lăng, bảo vệ lãnh thổ và phát triển văn hóa Quốc gia & Dân tộc, giúp đất nước tồn tại và phát huy rạng rỡ oanh liệt suốt nhiều ngàn năm qua.
Các nghiên cứu sâu rộng gần đây cho rằng, nhờ Việt Nam mà thế lực bá quyền Trung Quốc qua bao triều đại cường thịnh vẫn bị ngăn chặn, không thể mở rộng về phiá nam, giúp các nước nhỏ vùng Đông Nam Á yên ổn phát triển, tồn tại.
Ngày nay Trung Cộng đã dày công nghiên cứu lịch sử, chọn chiến thuật ru ngủ bằng 'diễn tiến hữu nghị', hủ hóa biến bọn lãnh đạo hàng đầu Việt Cộng thành tay sai, để lấn chiếm dần từ kinh tế qua chính trị, từ lãnh thổ qua lãnh hải...
Nếu người Việt ngày nay không sớm thức tỉnh, đoàn kết đứng lên lật đổ bọn Cộng sản Việt Nam bán nước buôn dân, quang phục quê hương, kịp thời ngăn chặn cuộc xâm lăng kiểu mới vô cùng thâm độc của Trung Cộng, nước Việt Nam cũng sẽ bị rơi vào thảm cảnh nô lệ, bị áp bức dày xéo như Tây Tạng, Tân Cương... rất khó quang phục, lúc quá trễ muốn thoát ra gông cùm tinh vi của bọn cộng sản; so với các lần bị nội thuộc thời phong kiến - thực dân trước đây?!
Nhận Định
Từ hình ảnh Hoa Sen trong đầm, và qua hình ảnh Ao Vườn + Con Cú... trong cuộc sống nơi thôn dã của người dân quê Việt Nam, chúng ta thấy dân ta có truyền thống tự chủ, tự lập, tự cường, nhưng vẫn hòa đồng theo tình 'đồng bào' phát huy thành tình 'đồng hương' của Mẹ Âu Cơ - chứ không 'hòa nhi bất đồng' như quan điểm 'quân tử' hẹp hòi của Khổng giáo.
Điều này chứng tỏ Vũ trụ quan và Nhân sinh quan của người Việt bao dung và biến hóa hơn Vũ trụ quan và Nhân sinh quan của Khổng giáo. Đây chính là lòng 'nhân' thoát thai từ nghiã 'đồng bào' của Mẹ Âu Cơ Việt Nam, được phát huy sâu rộng thành tinh thần 'chung' & 'cùng' qua hình ảnh 'nhiễu điều phủ giá gương' - 'bầu thương bí'.
Quan niệm sống này đối với người Việt vào Thế kỷ 21 lại càng ngời sáng hơn bao giờ hết, khi cuộc sống của người dân Việt từ trong nước đến hải ngoại, nay phải chung đụng với từ chế độ chuyên chính vô sản tệ hại, đến chế độ tư bản tự do dân chủ, dễ đưa đẩy người kém ý thức tới chỗ tha hóa mà vong thân mất gốc hư hỏng.
Một nhà hiền triết từng cho rằng 'Điều quan trọng là nơi ta hướng tới, chứ không phải là nơi ta đang đứng', thể hiện tinh thần Cây Sen trong bùn, rất đáng để chúng ta áp dụng vào cuộc sống khổ đau khi nước mất, nhà tan.
Nếu giữ được cuộc sống tinh thần và vật chất như 'hoa sen', có thể tỏa ngát hương thơm thanh tao như cây sen ở bất cứ đâu; tự tạo không gian 'ao vườn' nơi ta sống để ung dung tự tại, hoà nhập thân thương như bài Con Cú... thì không gì có thể làm cho chúng ta mất đi bản chất cao đẹp của tâm hồn Việt, của truyền thống Rồng Tiên - tuy bay bổng nhưng lại không xa lìa nhân thế.
Nếu tuân thủ được nhân sinh quan Việt cổ truyền 'sen trong bùn', ắt nhiều người sẽ tìm cách tự hoàn hảo cuộc sống cao đẹp ở bất cứ hoàn cảnh nào, trong nước cũng như ở ngoài nước, tĩnh tâm tìm tới những cảnh giới thanh cao giữa chốn trần ai đầy thị phi và tục lụy?
Cái lầm lẫn từng gây khốn khổ cho nhiều người Việt, là tự ví mình với Cây Trúc của Nho Giáo - tự cô lập trong tháp ngà, để rơi vào những bất như ý lớn nhỏ, trở nên yếm thế chán đời một cách phi lý đáng buồn, xa rời trách nhiệm quang phục quê hương bằng nhiều cách khác hẳn nhau, chứ không cứ phải tham gia các tổ chức tranh đấu mới là đấu tranh?
Trong việc cứu quốc ở hải ngoại hiện nay, thiết tưởng rất cần đến việc giáo dục và phổ biến văn hoá 'Cây Sen' kể trên, để ai nấy tự tạo cuộc sống thanh sạch, nhưng đồng thời dấn thân giúp cộng đồng phát triển hài hòa theo truyền thống 'Chung - Cùng'.
Vì một khi 'cộng đồng' giàu mạnh, cũng chẳng khác gì một tiểu bang giàu mạnh, có thể tạo nên các thế lực về xã hội, chính trị, văn hóa... giúp dân tộc ngày càng thăng hoa tốt đẹp hơn.
Yếu điểm của Người Việt Tỵ Nạn ở hải ngoại, là hầu hết tuy thành công, nhưng chỉ mới hạn hẹp trong phạm vi 'vinh thân & phì gia' - chưa đạt tới cảnh giới huy hoàng 'ích quốc - lợi dân'.
Đây chính là hậu quả tai hại do mấy ngàn năm qua chịu ảnh hưởng xấu của Tam Giáo:
-Lão Giáo đề cao sự hưởng nhàn, tự bằng lòng với các thành quả riêng tư, để 'công thành - thân thoái'. Biến tướng của quan niệm này là sự tự sát khi thất bại?!
-Phật Giáo sau này đa số thiên về Tiểu Thừa, lấy việc tu nhân tích đức cho bản thân là chính, mà xa rời gia đình, xã hội, quốc gia, dân tộc... nên mới có tình trạng 'quốc doanh' theo bọn xấu an nhiên tự tại tu hành, giữa khi dân tộc lầm than, quốc gia rơi vào tay bọn bán nước buôn dân?!
-Nho Giáo từ việc phân biệt Quân tử - Tiểu nhân, tự mãn một cách thiển cận, đi tới 'Hoà nhi Bất Đồng' mà tạo ra sự chia rẽ, do sự hiểu biết hạn hẹp như kiểu thầy bói rờ voi - ai cũng tưởng mình đúng, để từ đó không chấp nhận những gì ngoài tầm học hỏi và sự hiểu biết ngắn ngủi hạn hẹp vào thời gian và không gian của kiếp người. Hình ảnh các đại gia đệ tử hàng đầu của Khổng Tử cãi nhau chí chóe hàng trăm năm về vấn đề tri - hành, như người thì cho rằng 'tri nan - hành dị', kẻ lại bảo 'tri dị - hành nan'... cho thấy các Nho gia chỉ là bọn học thức, chưa là trí thức, nên mới cãi nhau quanh quẩn về sở học?!
Chỉ cần am hiểu nhân sinh quan 'Đồng Bào' của Mẹ Âu Cơ, thể hiện qua điã bánh 'Mẹ Trăm Con', thực hiện sự 'Chung + Cùng' trong cuộc sống từ gia đình đến ngoài xã hội, người Việt ở hải ngoại sẽ vượt lên chủ nghiã cá nhân ích kỷ của Tây phương - người Việt trong nước cũng sẽ thấy rõ sự gian dối của chủ nghiã Cộng sản, biến thành Đảng Trị khi áp dụng vào thực tế?!
Muốn 'Chung + Cùng' trong cuộc sống, đòi hỏi sự giáo dục rất cao, mới có thể biến ý thức thành tâm thức. Ca dao và Cổ tích Việt dầy công dạy dỗ từ tấm bé qua các điệu ru, câu hát, chuyện kể... nên mới có thể tạo được một tâm thức yêu nước thương nòi mạnh mẽ, giúp Quốc gia & Dân tộc vượt qua bao cuộc xâm lăng mấy ngàn năm qua, từ chính trị, quân sự, đến văn hóa...
Điều đáng buồn là trải qua nhiều trăm năm nền giáo dục bị tư tưởng ngoại lai làm cho tha hóa, tâm thức Việt Nam bị chôn vùi khá sâu, nên chỉ có thể thức tỉnh lo việc chung, quên mọi riêng tư khác biệt, khi thấy bị đẩy vào bước đường cùng, như nhiều trang sử sách ghi lại?!
Điều này đã gây ra hậu quả vô cùng ác hại, khi chỉ sau năm 1954 ở Miền Bắc và sau năm 1975 ở Miền Nam, dân chúng hai miền mới thức tỉnh quá muộn màng, trước những hành vi cùng hung cực ác, tham tàn bạo ngược của Cộng sản?!
Trong bài "Nền luân lý cổ của dân tộc Việt Nam', Học giả Phạm Quỳnh viết:
'Thờ gia đình, mến tổ quốc, phụng tổ tiên, tôn cổ điển, những tình cảm đó nhờ giáo dục vun trồng, thói quen bồi đắp, văn chương cùng phong tục cổ lệ tán dương, dần dần tạo thành cho người nước Nam một cái thần trí vững vàng ngay thẳng, một cái tâm địa chắc chắn điều hòa, một cái hồn tính thiết thực và kiện toàn, có lẽ không được bay bổng cao xa lắm, nhưng gặp khi quan hệ đến vận mệnh gia đình và tổ quốc thì cũng có thể tận tụy hy sinh được.
'Lòng hiếu trong đạo cha con, lòng tiết nghiã trong đạo vợ chồng, lòng trung thành với nhà vua là trạng thái đặc biệt của lòng ái quốc người Việt Nam, cổ lai vẫn gây nên những bực anh hùng liệt nữ, hoặc hiển hách, hoặc vô danh, hoặc tên đề chói lọi trong sử sách, hoặc việc chép lưu truyền trong gia phả, hay chỉ còn để lại cái bài vị trong một gian miếu nhỏ nấp dưới bóng tre xanh.
'...Nhưng đó là những bậc anh hùng có đóng vai quan trọng trong lịch sử. Ngoài những bậc đó, còn biết bao nhiêu những người nữa, và trong những người đó thiếu chi người đàn bà, âm thầm lẳng lặng mà can đảm quyên sinh để giữ tròn danh tiết.
Tuy nhiên sau những nhận định như trên, Học giả Phạm Quỳnh lại rơi vào lối mòn tha hóa & vong thân của giới học thức chịu ảnh hưởng Bắc phương mấy ngàn năm qua, khi viết tiếp:
'Như vậy thời cái luân lý cổ thoát thai ở đạo Khổng mà ra đó một phần căn cứ ở thiên nhiên, - là máu mủ và đất nước, - một phần căn cứ ở lịch sử, - là sự kinh lịch của đời trước, - rất là hợp lý lắm, không có mâu thuẫn chút nào với đời nay, và rất có thể khôi phục lại để làm cơ sở cho sự sinh hoạt về đạo đức của dân tộc Việt Nam này.
Còn đáng buồn hơn nữa, khi Học giả Phạm Quỳnh cho rằng:
'Luân lý ấy không phải là một lý thuyết trừu tượng ở trong sách cổ đâu; những điều giảng dạy của luân lý ấy đã tiêm nhiễm sâu xa cả thượng lưu cùng quần chúng trong nước vậy. Những danh từ dùng để chỉ các quan niệm cốt yếu của luân lý đó, như tam cương, ngũ thường, quân tử, tiểu nhân, tam tòng, tứ đức, v.v... đã thâu nhập vào tiếng nói của bình dân từ bao giờ đến giờ, ai ai cũng hiểu rõ và ai ai cũng thường dùng vậy.
Thực tế cho thấy chỉ có giới học thức chịu ảnh hưởng Khổng giáo mới luôn lấy quân tử - tiểu nhân ra làm mẫu mực, lấy tam cương - ngũ thường, tam tòng - tứ đức ra dạy đời... còn người Việt Nam có ý thức dân tộc truyền thống vẫn chỉ coi đó là cái gông, cùm cổ nam giới vào nhà vua, cùm chân nữ giới vào nam giới, để một lòng cúc cung tận tụy làm nô lệ khi được chút ơn vua, dù vua có bạc ác cũng không dám bất phục, chồng có đọa đầy cũng không dám từ bỏ.
Trong khi người Phụ nữ Việt rất tử tế với chồng, nhưng một khi bị đối xử kiểu 'chồng chúa - vợ tôi', một số sẽ có phản ứng:
'Chồng gì anh? vợ gì tôi?
Chẳng qua là cái nợ đời chi đây?!
'Mỗi người một nợ cầm tay!
'Đời xưa nợ vợ, đời nay nợ chồng!
Nền đạo đức cổ truyền 'Nhân - Trí - Hùng' của Việt Nam cao đẹp hơn 'Nhân - Trí - Dũng' của Khổng Giáo rất nhiều, ngay cả trong hai quan niệm về Nhân và Trí.
Chúng tôi xin lần lượt phân tích, lý giải tinh thần Đạo Đức Cổ Truyền Việt Nam qua bài ca dao sau đây:
'Bài Công Cha - Nghiã Mẹ
'Công Cha như núi Thái Sơn,
'Nghiã Mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
'Một lòng thờ Mẹ, kính Cha,
'Cho tròn chữ Hiếu, mới là Đạo Con.
A/ Về Hình thức:
a/ Từ ngữ: Một số chữ trong bài dùng từ Hán Việt, tuy đã Việt hóa rất phổ thông, có thể với dụng ý mong muốn làm mới sự diễn tả Công Nghiã lớn lao của Cha Mẹ, qua hình ảnh núi và nước, từng được người Việt dùng diễn tả từ lâu như:
-'Công cha lớn lắm ai ơi,
'Nghiã mẹ bằng trời, chín tháng cưu mang.
-'Công cha, đức mẹ cao dày,
'Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ.
'Nuôi con khó nhọc đến giờ,
'Trưởng thành, con phải biết thờ hai thân.
'Thức khuya, dậy sớm cho cần,
'Quạt nồng, ấp lạnh, giữ phần đạo con.
-'Cha Mẹ nuôi con bằng Trời, bằng Bể,
'Con nuôi Cha Mẹ con kể từng ngày.
Bài ca dao còn có một trình độ về Hình Nhi Thượng rất cao siêu, sau này mới được Dịch Học phân tích qua 2 yếu tố Sơn - Thủy (Núi Thái Sơn - Nước Trong Nguồn). Non và Nước luôn ở bên nhau, có bề ngoài quấn quít lấy nhau, êm ả thơ mộng nơi suối dài sông rộng, nhưng cuồng nộ nơi ghềnh thác, nên đòi hỏi sự khó khăn vô cùng khi kết nối.
Với quẻ Mông có hình ảnh Núi cao ở trên, Nước sâu ở dưới, vô cùng hiểm trở, đòi hỏi phải biết chan hòa mới có thể vẹn toàn - nào khác gì cuộc chung sống vợ chồng đâu dễ hòa hợp, nếu không biết nhịn nhường?
Với quẻ Kiển có hình ảnh Nước trên Núi dưới của thác ghềnh cheo leo, nước chảy đá mòn khó khăn hiểm trở, là quẻ xấu nhất - nào khác gì sự va chạm có thể đi đến đổ vỡ khi vợ chồng chung sống dài lâu, nên cần phải cẩn trọng dè chừng rất mực bên nhau mới có thể bền vững?
Do vậy công cha & nghiã mẹ sinh thành kết hợp nuôi dưỡng con cái thành đạt, phải được coi là lớn lao nhất trên đời, như quan niệm cổ truyền của người Việt, nên phải ' Một lòng Thờ Mẹ - Kính Cha' trước tiên và trên cả nhà vua, thánh, thần... mới là hợp tình và hợp lý - hợp đạo làm người hơn cả?
b/ Bố cục: Đặc điểm của nghệ thuật bố cục trong ca dao Việt là ngắn gọn, dễ hiểu và dễ nhớ, nên thường chỉ cần 4 câu cũng đủ bao quát một vấn đề đạo đức học lớn lao. Do vậy mà nội dung của bài đi thẳng vào chủ đề, nhấn mạnh ý chính. Ý chính ở đây là nói về chữ Hiếu trong Đạo Làm Con đối với Cha Mẹ theo quan niệm người Việt, đã được hình dung bằng các hình ảnh cao sâu lớn lao nhất, gợi cảm nhất, tuy phần nào có sự vay mượn vài chữ nước ngoài, nhưng đã bản địa hóa như các chữ Thái Sơn...
B/ Về Nội dung:
Nếu luân lý Khổng giáo luôn đề cao đạo Vua - Tôi, rồi mới đến đạo Cha - Con, đạo Vợ - Chồng (Quân - Thần, Phụ - Tử, Phu - Phụ), thì người Việt coi Cha Mẹ là cao sâu hơn hết (2 câu đầu). Như thế lấy lý do nào để cho rằng mọi người Việt đều tuân thủ Khổng Giáo?
Nói vậy cũng chẳng khác gì Cộng sản Việt Nam ngày nay lấy chủ nghiã Cộng sản áp đặt vào văn hóa Việt, coi Bác và Đảng là cao nhất, khi dạy trẻ 5 điều, thì đầu tiên là phải 'Yêu Tổ Quốc XHCN', chứ không phải là Tổ Quốc Việt Nam. Đồng thời trong cả 5 điều, không có điều nào nhắc tới Cha Mẹ?!
a/ Vấn đề Công Cha:
Nếu Người Cha theo Khổng Giáo chỉ biết lo học hành, đỗ đạt, phụng sự duy nhất một ông vua, giúp vua trị dân, đổi lấy bổng lộc vinh thân phì gia; bất kể ông vua tốt xấu, luật lệ hay dở... thì Người Cha Việt đã noi theo truyền thống Cha Rồng, dấn thân xuống biển dựng nước sống chung cùng các con, có công trực tiếp dạy bảo 50 người con không chỉ hữu ích cho gia đình, mà còn hữu dụng lập công kiến thiết đất nước giúp dân - chứ không giúp vua. Cho nên phần thưởng cao cả nhất của người Việt là 'Tổ Quốc Ghi Công', khi dấn thân dưới mọi hình thức hành động ích quốc lợi dân về quân sự, văn hóa, xã hội... lập công trả ơn Quốc gia & Dân tộc cưu mang từ tấm bé, được quốc dân ghi công tôn thờ nơi đình chung trong mỗi làng, hình thành tôn giáo thờ 'Địa Linh & Nhân Kiệt', khiến các triều đình cũng phải công nhận, qua việc làm các đạo sắc phong thần.
Đặc biệt Đại tướng Trần Hưng Đạo còn được người dân coi như Cha, phong Thánh tôn thờ, do Ngài đã biết vì nước không tuân lời cha tiếm quyền nhà vua để trả thù, khi đất nước đang bị nạn ngoại xâm.
An Tiêm cũng tự mình lập nghiệp, phủ nhận công ơn nhà vua, sẵn sàng nhận thử thách của nhà vua, đưa vợ con ra hoang đảo cùng sinh sống, lập nên cơ nghiệp được nhà vua công nhận tài năng tự túc & tự cường đón về giúp nước, qua câu chuyện Quả Dưa Đỏ - khác hẳn giáo điều 'Tôn Quân' độc tôn của Khổng Giáo, coi việc không tôn trọng vua là 'khi quân', bị trừng phạt nặng nề nhất?
Hình ảnh những Người Cha Việt sau năm 1975, phủ nhận cái ơn láo lếu do CSVN khiên cưỡng nêu ra là 'ơn Bác và Đảng', bỏ nước đi, đèo bòng theo vài đứa con ra biển, vượt bao sóng gió hiểm nguy tìm đến bến bờ tự do, xây dựng cuộc sống mới hạnh phúc, giúp cho các con thoát khỏi sự bạo tàn khi đất nước lầm than do bọn cầm quyền CSVN gian ác gây ra - thể hiện cái công rất lớn lao, đường đường chính chính vững mạnh như hình ảnh núi non sừng sững giữa trời biển giông bão.
Nếu tuân thủ Khổng giáo hay Cộng sản, những Người Cha tiêu biểu đáng kính của người Việt kể trên, hẳn bị khép tội 'khi quân' hoặc tội 'phản bội Tổ quốc XHCN'?!
b/ Vấn đề Nghiã Mẹ:
Khổng giáo trói buộc người phụ nữ vào đạo Tam Tòng & Tứ Đức, biến phụ nữ thành một thứ nô lệ từ nhỏ đến lớn 'Tại gia tòng Phụ - Xuất giá tòng Phu - Phu tử tòng Tử', theo luật 'Nam ngoại - Nữ nội', suốt đời thụ động quanh quẩn trong gia đình.
Trong khi đó, ngay từ thời lập quốc Mẹ Tiên đã được Cha Rồng giao phó trách nhiệm ở lại nuôi nấng dạy dỗ, hướng dẫn giúp các con lập nên nước Văn Lang, hình thành truyền thống anh hùng, qua 18 đời vua trước sau chỉ lấy duy nhất một chữ 'Hùng' làm niên hiệu, ghi lại rất nhiều bài học về đạo đức nhân luân cao đẹp, truyền tụng qua các cổ tích, ca dao, tục ngữ, được đề cao như một quốc gia có gần 5.000 văn hiến riêng biệt.
Trong lịch sử Việt Nam, người phụ nữ Việt không những rất được tôn trọng, mà còn được tín nhiệm ở ngôi cao như Trưng Nữ Vương, Triệu Trinh Nương...
Trong văn hóa Việt Nam, tiên nữ Việt là những người hết lòng chăm sóc quán xuyến từ trong gia đình đến ngoài xã hội, thực sự quên mình cần cù sớm hôm, giúp chồng con có hoàn cảnh sinh sống yên vui, phát triển tiến thân lập công với dân với nước, không cần đến các phép biến hóa hoang tưởng như Tiên Tàu, Tiên Tây.
Cô Tấm trong cổ tích Tấm Cám, cô Giáng Tiên trong sự tích Bích Câu Kỳ Ngộ, Công chúa Liễu Hạnh... từ cõi tiên xuống trần, đều lăn ngay vào bếp, là các phụ nữ đảm đang việc gia đình - Công chúa Liễu Hạnh còn ra tay trừ gian khử bạo giúp dân lành; chứ không chỉ giỏi múa hát như các tiên nữ của Tây, của Tàu...
Ngày nay, các nữ nghệ sĩ Việt Nam dù giỏi múa hát, hoặc khi ra nước ngoài phải đi làm, nhưng vẫn chăm sóc việc gia đình, nội trợ đảm đang, như truyền thống bao đời.
Tiên Việt không hề là hình ảnh hoang tưởng như trong cổ tích Đông Tây,cần tới những phép biến hóa thần thông không thể có thực.
Phép biến hóa của Tiên Việt là những sự thực nhưng vô cùng thần thông quảng đại. Đó là từ hạt gạo nếp hay tẻ nhỏ bé, có thể chế biến ra hàng trăm thứ bánh ngon lành: Mẹ Âu Cơ làm ra bánh Mẹ Trăm Con, Mẹ của Lang Liêu chỉ dẫn con làm Bánh Dầy & Bánh Chưng, ý Lan Phu nhân làm ra bánh Phu Thê, và hàng triệu phụ nữ bao đời đã làm ra không biết bao nhiêu thứ bánh, thứ bún... giúp nghệ thuật ẩm thực Việt phong phú ngon lành đa dạng nhất thế giới?
Trong bài ca dao trên, khi nhắc đến Mẹ đã dùng các chữ 'Nghiã Mẹ' và 'Thờ Mẹ', thể hiện cả tư tưởng lẫn tình cảm sâu xa nhất của nam giới Việt khi tri ân.
Nếu hầu hết các nước Tây phương và Đông phương coi tình ái nam nữ nặng về tình dục, lấy sự tận hưởng xác thân của người phụ nữ là chính (cụ thể qua sách Tố Nữ Kinh của Trung Hoa, Kama Sutra của Ấn Độ, 36 kiểu của Âu Mỹ...) thì người phụ nữ Việt đã biết nâng 'Tình Ái' lên cảnh giới 'Tình Nghiã', khiến chồng con phải tôn thờ.
-'Cây khô nghe sấm nứt chồi,
'Đạo chồng nghiã vợ, giận rồi lại thương.
-'Thương nhau quán cũng như nhà,
'Lều tranh có nghiã hơn tòa ngói cao.
-'Lấy nhau vì nghiã, vì tình,
'Đói no không ngả, rách lành không nghiêng.
'Lấy nhau vì bạc vì tiền,
'Đến khi tiền hết thì duyên bẽ bàng.
-'Lên bờ lại muốn xuống thuyền,
'Vì chưng chữ nghiã, chữ duyên buộc rồi.
'Buộc cho thành cánh hoa hồi,
'Khi lên, khi xuống, hai người cùng khiêng.
'Buộc vào tấm lưới, sợi giềng,
'Khi khơi, khi lộng, chỉ riêng ta mình.
'Chữ duyên, chữ nghiã, chữ tình,
'Cả ba chữ ấy in hình trong gương.
Nếu thi ca Tây Tàu hầu hết đều chỉ ca ngợi vẻ đẹp xác thân của người phụ nữ thanh xuân, thì thi ca Việt Nam, từ bác học đến bình dân đều ca ngợi vẻ đẹp tinh thần của người phụ nữ Việt. Cụ thể như các bài thơ Khen Vợ của Trần Tế Xương, Khóc Vợ của Nguyễn Khuyến, Bùi Hữu Nghiã, các bài thơ nhạc ca ngợi Mẹ rất thắm thiết dưới thời Việt Nam Cộng Hòa... ít thấy trong văn chương nghệ thuật thế giới, và ngay cả miền Bắc Việt khi phải sống dưới chế độ Cộng sản vô gia đình, vô tổ quốc?
Gần với chúng ta nhất, là hình ảnh những người mẹ & người vợ Miền Nam Việt Nam lặn lội vào rừng sâu núi thẳm, thăm nuôi chồng con khi thất trận sau năm 1975 trong các trại tù khổng lồ Cộng sản. Rồi khi chồng con ra tù lại gồng mình ở lại giữ nhà nuôi con nhỏ, đối phó với công an khu vực hàng ngày, giúp cho chồng vượt thoát ra nước ngoài tìm tự do, rồi bảo lãnh đoàn tụ xây dựng lại cuộc sống hạnh phúc nơi chân trời mới... thì 'Công Cha' và 'Nghiã Mẹ' như 2 nhân tố cứng và mềm, đá và nước, phối hợp hoàn hảo trong muôn vàn khó khăn, mới có thể vượt khó trong nguy nan như 2 quẻ Kiển và Mông - đòi hỏi sự đối phó gian nan nhất trong 64 quẻ của Dịch học.
c/ Chữ Hiếu của Đạo Con Việt Nam:
Đạo Làm Con qua chữ Hiếu của người Việt khác biệt và cao đẹp, vượt lên trên Đạo Làm Con qua quan niệm về chữ Hiếu của Khổng giáo.
Khổng giáo quan niệm 'Con cãi cha mẹ trăm đường con hư' (Câu ca dao này do các đệ tử Khổng giáo làm ra), nhưng sử sách Việt đã hơn một lần cho thấy có nhiều trường hợp, khi thấy cha mẹ chưa đúng, con cái phải sáng suốt và mạnh dạn vượt lên sự bình thường, không được tuân theo vì rất nhiều lý do tình lý cao thâm khác nhau:
**Trường hợp Chử Đồng Tử không nghe lời cha dặn, khi vẫn giành chiếc khố duy nhất chôn theo cha. Kết quả lòng hiếu thảo vượt lên sự tuân lời bình thường này đã là nguyên cớ đưa đến cuộc tình duyên với công chúa Tiên Dung, hình thành một mối lương duyên cao đẹp được truyền tụng ca ngợi bao đời, tôn vinh làm một trong 4 vị thánh 'Tứ bất Tử' của dân tộc Việt Nam. Tiên Dung cũng tự quyết về vấn đề hôn nhân của mình, khi thấy cần; đâu có 'tòng phụ' theo kiểu Nho Giáo?
**Trường hợp Trần Hưng Đạo không tuân theo lời dặn của cha là Trần Liễu giết vua trả thù, vẫn một lòng phò vua 3 lần đánh đuổi quân xâm lăng Nguyên Mông, giúp nhà vua bảo vệ quốc gia & dân tộc, cũng được người dân Việt xưng tụng là 'cha', tôn vinh là 'Đức Thánh Trần' thờ phượng hàng năm:
'Tháng 8 giỗ Cha,
'Tháng 3 giỗ Mẹ.
**Trường hợp thi hào Cao Bá Quát sửa đôi câu đối của vua Tự Đức là một điển hình thú vị nhất: Nguyên vua Tự Đức là người tôn sùng Khổng giáo, văn hay chữ tốt theo lối học này rất mực, một lần làm được 2 câu tự cho là hay, được quần thần ca ngợi không tiếc lời:
'Thần khả báo Quân ân,
'Tử năng thừa Phụ nghiệp.
Nhưng Cao Bá Quát khi thấy, đã chê 2 câu là vừa bất kính, vừa bất trung, lại bất hiếu, vì các lý do:
-Bất kính vì đặt Thần trên Quân, Tử trên Phụ, khi viết cũng như khi treo 2 câu theo chiều thẳng đứng của chữ Hán.
-Bất trung là chỉ khi nào vua quang minh, ban ân chính đại, thì kẻ bầy tôi mới nhận và tri ân, đền đáp. Còn khi ân đức nhà vua không chính đáng, kẻ bầy tôi trung chính phải tìm cách can gián mới là bậc 'tôi trung', thay vì cúi đầu theo.
-Bất hiếu là chỉ khi nào cha có sự nghiệp tốt đẹp, con mới phải noi theo, phát triển. Còn nếu không, làm con phải biết can ngăn sự sai trái, vì nếu noi theo sự bất chính làm ác, có thể bị tù tội, mất hết đạo đức uy tín gia đình.
Do vậy, Cao bá Quát đã sửa, và khiến vua Tự Đức không thể bắt lỗi phạm thượng:
'Quân ân, Thần khả báo,
'Phụ nghiệp, Tử năng thừa.
**
Khác biệt về đạo đức giữa Khổng giáo và Việt Nam
Cho đến nay, nhiều sách vở và không ít người học thức cao vẫn cho rằng 'Luân lý cổ của người Việt thoát thai ở đạo Khổng' như Học giả Phạm Quỳnh nhận định, mà không chịu hiểu rằng sự 'cổ' này chỉ là thứ 'cổ lỗ sĩ' - tức là thứ cổ do cái lỗ của kẻ sĩ lậm Khổng giáo quá nặng đào ra?!
Các cổ tích, ca dao, tục ngữ Việt có từ trước khi Khổng giáo xâm nhập vào Việt Nam, đã đạt tầm vóc của những trang Kinh Thư, Kinh Thi riêng biệt của dân tộc Việt, có hình thức và nội dung phong phú, thể hiện không biết bao nhiêu ý cao tình đẹp, có thể hệ thống hóa thành một nền triết học uyên bác chung cho cả nhân loại.
Nếu đến nay trên các diễn đàn thế giới vẫn còn phải nêu vấn đề bình quyền nam nữ, thì trong văn hóa cổ truyền Việt Nam, người phụ nữ không hề tranh đấu đòi bình quyền qua các diễn đàn, mà thầm lặng tự khẳng định vai trò của mình qua các hành động cao cả từ trong gia đình, đến ngoài xã hội, quốc gia... để được kính phục, công nhận, nhớ ơn, lập đền chùa thờ phượng như các chùa Bà Đanh - Bà Đá - Bà Đen... có giá trị cao hơn cả sự bình quyền, bình đẳng rất nhiều?
Người Trung Quốc rất sợ phụ nữ nắm quyền, vì ở nước họ qua lối giáo dục đào tạo của Nho Giáo, chỉ có được những Đát Kỷ, Từ Hi... mà chưa bao giờ có được những vị như Hai Bà Trưng, Bà Triệu... như ở Việt Nam.
Nếu nước Việt không bị văn hóa Khổng Mạnh đô hộ, giới thống trị tìm mọi cách áp đảo phái nữ, chắc chắn lịch sử Việt đã có thêm rất nhiều các bậc liệt nữ trên ngôi cao, giúp nước nhiều hơn nữa?
Trong văn học, người phụ nữ Việt cũng tự giành cho mình địa vị hàng đầu, như Nữ sĩ Hồ Xuân Hương được tôn là 'Bà Chúa' trong Thơ Nôm, Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm và Ngọc Hân Công chúa làm rung động lòng người trong thể ngâm, Bà huyện Thanh Quan tạo sự hài hòa chữ Nôm với chữ Hán trong thơ văn bác học... Trong phong trào Thơ Mới, Văn Mới cũng xuất hiện đồng loạt các nữ thi sĩ, nữ văn sĩ có nhiều đóng góp đáng kể cho nền Văn Học Mới.
Người phụ nữ Việt ngay từ thời dựng nước, qua hình ảnh Mẹ Âu Cơ được chồng là Lạc Long Quân hiểu rõ khả năng đảm đang, tin tưởng giao phó công việc nuôi nấng giáo dục một nửa số con ở lại giữ nước, phát triển quốc gia dân tộc thành công vẻ vang... có một số điểm giống như phụ nữ dưới chế độ Cộng sản sau năm 1975, khi người chồng thua trận, bị kẻ thù gian ác lừa gạt đầy đọa tước mất hết quyền mưu sinh, đành giao lại nhà cửa con cái cho vợ quản lý, dấn thân vượt biên tìm lẽ sống mới cho cả gia đình. Và người phụ nữ Việt trong thời kỳ rất khó khăn gian nguy này, đã làm trọn trách nhiệm như thời kỳ Nam Bắc Trịnh Nguyễn phân tranh, được Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm mô tả trong Chinh Phụ Ngâm Khúc:
-'Lòng lão thân buồn khi tựa cửa,
'Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm.
'Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam,
'Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân.
'Nay một thân nuôi già dạy trẻ,
'Nỗi quan hoài mang mể xiết bao...
Hoặc chi li cụ thể hơn như bài ru sau đây, gợi nhớ đến hình ảnh tượng Phật Bà Thiên Thủ & Thiên Nhỡn của một ngôi chùa Bắc Việt, mang hình ảnh đảm đang của Phụ Nữ Việt:
'Bồng bồng con ngủ con ơi,
'Dưới sông cá lội, trên trời chim bay,
'Ước gì mẹ có mười tay,
'Tay kia bắt cá, tay này bắt chim.
'Một tay se chỉ luồn kim,
'Một tay làm ruộng, tay tìm rau dưa,
'Một tay kéo sợi, guồng xa,
'Một tay vun vén cửa nhà sớm hôm,
'Một tay để mẹ ru con,
'Để lau nước mắt, mẹ còn thiếu tay.
'Bống bồng con ngủ cho say,
'Dưới sông cá lội, chim bay trên trời...
Và như thế, thì vai trò người phụ nữ trong xã hội Việt Nam và trong Khổng giáo hoàn toàn khác biệt, giữ các vai trò nội - ngoại, cao - thấp cách xa nhau rất nhiều?
Nói phụ nữ Việt thấm nhuần Khổng giáo, là chỉ đề cập đến một số nhỏ ở thành thị bị Nho học làm cho tha hóa; trong khi thành phần dân chúng ở nông thôn Việt chiếm tới 90% dân số, cho tới ngay cả trước Thế kỷ 21, đâu có tuân phục các giáo điều không tôn trọng nữ quyền của Nho Giáo?
Khác biệt giữa luân lý Khổng giáo và luân lý Việt Nam
Luân lý Khổng giáo lấy Tam Cương - Ngũ Thường và Tam Tòng - Tứ Đức để giáo dục, đưa nam nữ vào các khuôn phép bất biến. Cũng như các giáo điều nền tảng luân lý phổ biến của nhiều nước bị tôn giáo chế ngự trên thế giới, Khổng giáo cũng chỉ nêu ra những cái tốt theo quan điểm riêng biệt của mình, bắt phải làm theo, bất kể đến thực tế áp dụng sẽ ra sao?! Điều này cũng rơi vào hoàn cảnh như mớ giáo điều không tưởng của lý thuyết Cộng sản, khi đem áp dụng đã khiến không ai theo nổi, trở thành mất ý hướng mà gian dối sa đọa đến kinh hoàng!
Trong khi đó, trên thế giới hầu như chỉ có duy nhất nền luân lý của Việt Nam đi sát với thực trạng của đời sống nhân quần, chủ trương 'Không xấu cũng là tốt' để có thể dễ thực hiện hơn.
Cho nên thay vì chỉ nêu ra các hình ảnh tốt đẹp xa vời khô khan khó theo để giảng dạy, thì người Việt đã dùng nghệ thuật nói nhiều về cái xấu, để mọi người dễ cảm nhận, tránh mắc phải:
'Con ơi, mẹ bảo con này.
'Học buôn, học bán cho tày người ta.
'Con đừng học thói chua ngoa,
'Họ hàng ghét bỏ, người ta chê cười.
'Dù no, dù đói, cho tươi,
'Khoan ăn, bớt ngủ, liệu bài lo toan.
'Phòng khi đóng góp việc làng,
'Đồng tiền, bát gạo, lo toan cho chồng.
'Trước là đắc nghiã cùng chồng,
'Sau là họ mạc cũng không chê cười.
'Con ơi, nhớ bấy nhiêu lời.
Khi muốn một phụ nữ trở nên tốt, không gì bằng chế diễu những cái xấu, để họ vì có tâm lý mẫn cảm dễ bị hổ thẹn mà tránh xa, không mắc vào:
'Lỗ mũi cô mười tám gánh lông,
'Chồng yêu, chồng bảo râu rồng trời cho.
'Đêm nằm thì ngáy o o,
'Chồng yêu, chồng bảo ngáy cho vui nhà.
'Đi chợ thì hay ăn quà,
'Chồng yêu, chồng bảo về nhà đỡ cơm.
'Trên đầu những rác cùng rơm,
'Chồng yêu, chồng bảo hoa thơm rắc đầu.
**
Chủ trương luân lý bắt phải uốn nắn theo một chiều hướng nhất định, làm thui chột sự phát triển, chẳng khác gì những cây bonsai bị mất sinh lực. Trong khi cây sen mọc tự nhiên dù trong bùn lầy tanh hôi, vẫn tỏa hương thơm ngát.
Một khi Khổng giáo chọn hình tượng Cây Trúc, người Việt chọn hình tượng Cây Sen, hai hình tượng có không gian tồn tại và phát triển khác hẳn nhau, thì làm sao có thể trộn lẫn mà ảnh hưởng nhau?!
Điều nguy hại là mấy ngàn năm qua, giới học thức vong bản khi chịu ảnh hưởng của cái học Tứ Thư - Ngũ Kinh, phải nghiền ngẫm lấy đó làm con đường học hành thi cử tiến thân duy nhất, nên đâu còn đủ thời gian và tâm ý nghĩ đến những gì khác biệt tốt đẹp từ cội nguồn?!
Đến một học giả có học vấn gồm cả Đông Tây uyên bác như Phạm Quỳnh, được coi là sao bắc đẩu của mấy thời kỳ văn hóa, tác phẩm được giảng dậy từ bậc trung học đến đại học, mà còn cho rằng 'nền luân lý cổ Việt Nam thoát thai từ Khổng giáo', trách gì những người khác bấy nay sao không khỏi hồ đồ?!
Trải mấy ngàn năm bị Bắc phương đô hộ, nền văn hóa Việt cổ truyền đã bị nhiều lớp sơn tha hóa của nhiều thế hệ học thức vong bản che phủ, lại còn bị thêm nhiều nhà văn hóa mất gốc hàng đầu viết sách khẳng định nhiều phen, như những cái đinh đóng chặt - gia cố lớp sơn ngoại hóa đã dầy còn chặt chẽ hơn nữa.
Muốn giải thoát, trước tiên chúng ta cần có đủ lý lẽ thuyết phục nhổ các cây đinh văn hóa nội ngoại vong thân, mới mong lột bỏ các lớp sơn văn hóa ngoại che phủ bao đời?
Ở trong nước hồi cuối thập niên 1960 Phật Giáo hoành hành, sau khi lật đổ chế độ do Thiên Chúa Giáo hùng cứ một thời, chúng tôi chỉ nêu vấn đề Lang Liêu được Mẹ chứ không phải Bụt báo mộng dạy cách làm bánh dày & bánh chưng, vì Bụt đâu có thể dạy sát sinh giết heo làm nhân bánh. Hơn thế nữa vào thời điểm đó Bụt cũng chưa ra đời... Lập tức số báo Phát Triển Văn Hóa đang in ở nhà in Đại học Vạn Hạnh, bị nhà sư phụ trách sửa chính tả bản chữ mới vỗ, báo cáo lên trên, áp lực tôi phải sửa lại ý kiến. Do chúng tôi lúc đó được giao vai trò phụ trách tòa soạn và cũng là tác giả bài viết, không chấp nhận sự áp đặt tư tưởng sai trái đến vô lý, mà tờ báo bị hủy bỏ luôn. Bản thân chúng tôi đang là một giáo sư trung học còn bị đe dọa đổi đi một nhiệm sở ở vùng khỉ ho cò gáy, nếu còn dám viết 'phạm' như vậy nữa!!!
Học giả Nguyễn Hiến Lê cũng từng bị một linh mục tỉnh lẻ soi bói vào một cuốn sử học, cấm cản khi viết về Phong trào bài giáo thời Văn Thân...
Cái mắc míu dây mơ rễ mái, là tờ Phát Triển Văn Hóa lúc đó do Hội Bách Khoa Bình Dân được sự trợ giúp tài chính của phủ Quốc Vụ Khanh Văn Hóa, do ông Mai Thọ Truyền theo Phật Giáo lãnh đạo, nên chỉ cho tiền với điều kiện phải in ở một nhà in Phật Giáo do phủ Quốc Vụ Khanh chỉ định.
Câu chuyện tuy nhỏ nhặt, chẳng đáng gì, nhưng cũng đủ để cho thấy các thế lực tôn giáo - chính trị ở trong nước khi có dân chủ tự do cũng đã tệ hại ra sao, và nay do CSVN chuyên chế, đang cùng hung cực ác đến thế nào?!
Nói ra điều này, chúng tôi chỉ muốn nêu sự khó khăn của các nhà văn hoá chân chính muốn phục hưng cội nguồn, đã bị các thế lực văn hóa tư tưởng ngoại lai đang chiếm cứ thế lực cai trị, đàn áp bức bách ra sao, nên mới có chuyện mấy ngàn năm qua mà giới học thức vẫn 'bất trí' - coi các nền văn hóa ngoại lai 'phát sinh' ra luân lý - đạo đức Việt Nam?!
Ngày nay khi tạm cư nơi các nước tạm dung, tuy vẫn bị các thế lực tôn giáo và chính trị tha hóa tìm cách cô lập, nhưng dù sao khi viết và phổ biến không còn bị đe dọa cấm cản dữ dằn như ở trong nước - nơi các tôn giáo và chủ nghiã chính trị tha hóa & vong thân luôn tìm cách 'duy ngã độc tôn' rất đáng ghê tởm?!
Nhận Định
Muốn giúp mọi người có những hành động tốt đẹp, trước tiên cần phải có các tư
duy chân chính cao đẹp, đủ khả năng thuyết phục mọi người.
Mấy ngàn năm qua, hầu hết những người có học ở Việt Nam chỉ đạt tới trình độ học thức khi chỉ có thể nắm vững các kiến thức trong phạm vi chuyên môn, làu thông những gì được chỉ dạy không hơn, nên chưa có mấy ai đạt được đến trình độ trí thức.
Vì người trí thức còn phải biết dùng căn bản học thức của mình, để nghiên cứu thâm sâu về các nền văn hóa & tư tưởng của nhân loại, suy xét cổ kim, so sánh đông tây, tìm ra những lối thoát & những con đường vươn lên các cảnh giới cao xa của cuộc sống. Cụ thể là trở thành các tư tưởng gia, triết gia, có các ý tưởng kinh bang tế thế ích nước lợi dân, nêu được các học thuyết nhằm lý giải các nan đề của từng thời đại, giúp đồng loại có thể tư duy cao cả, bớt đi những ý tưởng ích kỷ tầm thường, làm mất tư cách con người.
Theo Triết học, người Học thức chỉ có được cái kiến thức của 'Một Phân Tích Giữa Hai Tổng Hợp', tức sự hiểu biết hạn hẹp từ cái vốn học thức của mình mà thôi - Còn người Trí thức, ngoài vốn kiến thức do học hỏi mà có, còn biết Diễn dịch & Quy nạp các kiến thức từ nhiều phương diện khác nhau, hầu có thể đi tới các hiểu biết và nhận định vượt ra khỏi những gì đã học, đã biết.
Vài hình ảnh cụ thể là Luật sư Lê Thị Công Nhân, tuy bị đào tạo học vấn dưới chế độ Cộng sản chuyên chính, chưa từng xuất ngoại, nhưng đã thoát ra khỏi cái vốn học thức hạn hẹp của mình, thể hiện một kiến thức vượt ra ngoài những gì đã học, có những lời lẽ và hành động tuyệt vời khi can đảm đấu tranh cho tự do dân chủ, được ai nấy mến phục cả trước và sau khi bị 3 năm tù đầy ải. Luật sư Cù Huy Hà Vũ từ khi sang Pháp du học, đã ngộ ra đâu là chân lý, can đảm khởi tố những sai trái bất chính của tên Thủ tướng dốt nát cửa quyền Nguyễn Tấn Dũng, dù biết sẽ bị trả thù rất bỉ ổi, hèn hạ.
Thực tế bao năm qua cho thấy, hầu hết các nhà đấu tranh chỉ tranh đấu theo tư duy hạn hẹp tủn mủn của cá nhân, của đảng phái, của tôn giáo mình... mà xa lìa mẫu số chung Quốc gia & Dân tộc, nên mới sinh ra chia rẽ làm suy yếu sức mạnh đấu tranh vì đại nghiã?
Điều đáng trách với giới học thức Việt Nam mấy ngàn năm qua, là không mấy ai chịu về nguồn tìm hiểu những giá trị văn hóa tư tưởng của tiền nhân, nghiên cứu so sánh với các nền tảng tư tưởng văn hóa của các nước khác, hầu có thể phục hồi rút ra những vấn đề tư duy cao đẹp của tiền nhân, làm nền tảng cho việc phát huy giáo dục chính nghiã quốc gia & dân tộc.
Bấy nay các sách giáo khoa của các tác giả hàng đầu, được dùng làm căn bản để giảng dạy tại các trường, như của Dương Quảng Hàm, Đào Duy Anh, Phạm Quỳnh... vẫn chỉ ở trình độ nhìn thấy sự ảnh hưởng của Tam Giáo vào văn học tư tưởng của giới học thức Việt Nam, mà chưa thể đạt tới trình độ nhìn ra sự bị 'bản địa hóa' của Tam Giáo trong đại chúng, khi xâm nhập vào Việt Nam.
Dân tộc Việt Nam sở dĩ có thể tồn tại và phát triển bền vững giữa hai nước Trung Hoa và Ấn Độ khổng lồ, từng bị gọi là Indochine, chính là nhờ ở những nền tảng văn hóa & tư tưởng cổ truyền vững vàng và cao đẹp hơn cả hai nền văn hóa Ấn - Hoa, qua hai tôn giáo Phật - Nho, nên mới không bị tha hóa, vong thân, mất gốc suốt mấy ngàn năm qua.
Nhìn 'diễn tiến hữu nghị' mà Trung Cộng thực hiện thời gian qua, để thu phục bọn Cộng sản Việt Nam, chúng ta mới có thể hiểu tiền nhân chúng ta vững mạnh đến thế nào, bọn Việt Cộng theo đòi chủ nghiã Cộng sản, bị nô lệ vong thân bằng sự thần thánh hóa các lãnh tụ, khiến yếu hèn ra sao - hầu mới có thể từ đó tìm ra con đường phục hưng văn hóa & tư tưởng cứu quốc & phục quốc, đòi hỏi rất nhiều cam go, chứ không hề đơn giản như các bài bình luận chủ quan, hạn hẹp trong tầm nhìn của những kẻ học thức, chưa thể đạt trình độ trí thức, mà chúng ta thường đọc.
Muốn quật cường, mỗi cá nhân cần trang bị các tư duy sắc bén, nuôi dưỡng các ý chí kiên cường, thực hiện các hành động sáng suốt hướng lên mục tiêu 'ích nước & lợi dân', vượt lên các khác biệt về tôn giáo chính trị, dễ gây cách biệt mù quáng làm mất đoàn kết .
Điều này đòi hỏi trước tiên phải có những công trình nghiên cứu văn hóa tư tưởng thâm sâu về cội nguồn, mới đủ khả năng dẫn đạo thuyết phục, giúp người có học thức trau giồi trở thành người trí thức ích quốc & lợi dân - thay vì chỉ có một số vốn kiến thức giới hạn do nhà trường đào tạo - nặng về nghề nghiệp chuyên môn, nhằm kiếm sống chỉ giúp cho bản thân và gia đình phát triển tốt đẹp mà thôi, như bấy nay?
Đơn vị căn bản của Xã Hội Việt Nam là Làng.
Về Nhân sự, mỗi làng có vài giòng họ quy tụ. Một số làng chỉ có một giòng họ duy nhất chung sống, sinh sôi nảy nở, dùng họ làm tên làng như Đặng Xá, Lê Xá... Có một số làng nghề, cả làng làm chung một nghề, cùng phát triển tạo thành những sản phẩm nổi tiếng. Do vậy tình cảm gắn bó giữa người dân trong một làng rất thân thương mật thiết:
-'Quê tôi có lũy tre xanh,
'Có sông tắm mát uốn quanh xóm làng.
'Bên sông cây trái hai hàng,
'Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng.
-'Ngày đi, trúc chửa mọc măng,
'Ngày về, trúc đã cao bằng ngọn tre.
'Ngày đi, lúa chửa chia vè,
'Ngày về, lúa đã đỏ hoe ngoài đồng.
'Ngày đi, em chửa có chồng,
'Ngày về em đã con bồng, con mang'
-'Nhớ ngày mồng 7 tháng 3,
'Trở về hội Láng, trở ra hội Thầy.
và trở nên quan trọng rất mực:
Một miếng giữa làng, bằng một sàng xó bếp.
Về Chính sự, mỗi làng có những luật lệ riêng viết thành Hương Ước, để từ đó kén chọn người lo việc làng theo phong tục tập quán riêng, đến độ luật lệ triều đình nhiều khi cũng phải tôn trọng:
Phép Vua thua Lệ Làng.
Tuy mỗi gia đình tự tạo một đời sống vật chất và tinh thần khép kín riêng biệt, nhưng khi quy tụ thành làng, ai nấy đều tuân thủ 'lệ làng' và tôn trọng giữ gìn nhiều thứ chung, mệnh danh là của làng, được dân làng lo đóng góp công sức gìn giữ, phát huy, như đình làng - ao làng - giếng làng - chùa làng - trường làng - đường làng - cổng làng... tất cả được bao quanh bởi lũy tre làng khép kín.
Lệ làng nêu những quy củ cho mọi người biết để tuân thủ trong cuộc sống chung, còn luật thường chỉ nêu lên những trừng phạt cái xấu cho mọi người tránh, hơn là nêu những cái tốt bắt mọi người tuân thủ như các tôn giáo. Cụ thể như lệ bắt vạ khi các cô gái chửa hoang...
-'Phình phình lớn giữa lớn ra,
'Mẹ ơi, con chẳng ở nhà nữa đâu!
'Ở nhà làng bắt mất trâu,
'Cho nên con phải cúi đầu ra đi!
Đình làng được coi là nơi quan trọng nhất làng, tiêu biểu cho khuôn mặt của làng, thường được xây dựng uy nghi nhất ngay nơi đầu làng.
Đình là nơi thờ vị Thần Thành Hoàng của làng - một vị có công trạng với làng, hoặc với quốc gia dân tộc. Tùy theo công lao lớn nhỏ, các vị Thần Thành Hoàng tài đức được liệt vào hàng phúc thần, đều được nhà vua sắc phong làm Đệ Nhất đẳng thần, Đệ Nhị đẳng thần, Đệ Tam đẳng thần.
Hàng năm các làng thường làm lễ Cúng Đình vào ngày giỗ Thần Thành Hoàng, một số nơi nhân dịp này tổ chức 'hèm' tức là một màn kịch ngoài trời diễn lại việc làm cao đẹp của vị Thần Thành Hoàng, để nhắc nhở mọi người noi theo, và cầu xin được phù hộ độ trì. Như ở làng Gióng diễn lại sự tích Thần Thành Hoàng của làng là Phù Đổng Thiên Vương cưỡi ngựa sắt đánh giặc giúp nước. Hèm này tổ chức rất lớn thành hội, được người dân nhiều làng khác đến xem, mang tính giáo dục lòng yêu nước sâu rộng. Nay hèm này được Liên Hiệp Quốc công nhận là di sản Văn hóa Thế giới, chứng tỏ có giá trị nhân văn rất cao.
Tuy nhiên, cũng có một số làng do mê tín dị đoan, thờ các vị thần nhảm nhí, không được triều đình công nhận sắc phong.
Do vậy chẳng những ca dao, mà thi ca - âm nhạc cũng có rất nhiều bài nói về làng với những tình cảm nồng hậu, kỷ niệm sâu sắc, coi làng là nơi chôn nhau cắt rốn, sinh trưởng thân thiết.
Bài Làng Ta
'Làng ta phong cảnh hữu tình,
'Dân cư giang khúc như hình con long.
'Nhờ trời hạ kế sang đông,
'Làm nghề cầy cấy vun trồng tốt tươi.
'Vụ năm cho đến vụ mười,
'Trong làng kẻ gái, người trai đua nghề.
'Trời ra, gắng; trời lặn, về,
'Ngày ngày, tháng tháng, nghiệp nghề truân chiên.
'Dưới dân họ, trên quan viên,
'Công bình giữ mực cầm quyền cho hay.
'Bây giờ gặp phải hội này,
'Khi thời hạn hán, khi hay mưa dầm.
'Khi thời gió bão ầm ầm,
'Đồng tiền lúa thóc mười phần được ba.
'Lấy gì đăng nạp nữa mà,
'Lấy gì công việc nước nhà cho đang.
'Lấy gì sưu thuế phép thường,
'Lấy gì bổ trợ đong lường làm ăn.
'Trời làm khổ cực hại dân,
'Trời làm mất mát có phần nào chăng.
'Ca dao tình sự than rằng,
'Ca ngâm một khúc trẻ hằng hát chơi.
'Trẻ rằng: Cũng gặp lúc trời,
'Cũng khi no ấm có người, có ta.
'Cũng khi ơn đội quốc gia,
'Cũng khi đại xá, dân ta được mừng.
'Cũng khi quả phúc đưa dâng,
'Chúc vua muôn tuổi, thăng hằng muôn năm.
'Trăm quan rờ rỡ đình sâm,
'Lộc điền thêm mãi, chăm chăm lệ thường.
'Khi học xá, khi huyện đường,
'Ơn trên hậu tặng ngày lương tháng tiền.
'Can chi dân sự nhiễu phiền,
'Mừng rằng có kẻ cầm quyền cho ta.
'Ai ai giữ phép nước nhà,
'Ai ai thương lấy dân là phép công.
'Mới hậu dưỡng, mới phú phong,
'Kẻ cầy nhờ cậy ở trong thái bình.
'Kẻ nho lo nghiệp học hành,
'Để cho chiếm bảng nức danh trong đời.
'Kẻ buôn thời được lắm lời,
'Tàng vương chi thị tứ thời bán mua.
'Kẻ công ai cũng đua xô,
'Ăn nghề chạm vẽ phượng, rùa, long, ly.
'Tứ dân mỗi nghiệp mỗi nghề,
'Cũng đều nhờ được gặp khi thái hòa.
'Trước sau một khúc dạo ca,
'Khi nhàn hạ, khi đàn hòa với nhau.
Bài ca dao trên tuy tả cảnh sinh hoạt xã hội của làng, nhưng thể hiện cảm nghĩ một một người theo học Khổng giáo, nên đề cập tới vua quan không theo cung cách của người bình dân như kiểu:
'Quan có cần, nhưng dân chưa vội,
'Quan có vội, quan lội quan đi.
**
Nước Việt là xứ nông nghiệp, nên người dân có nhiều bài ca dao nói về các sinh hoạt lao động và xã hội trong năm của mình, để nhắc nhở chỉ bảo nhau:
Bài Việc Đồng Áng
'Tháng chạp là tháng trồng khoai,
'Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà.
'Tháng ba cầy vỡ ruộng ra,
'Tháng tư làm mạ, mưa sa đầy đồng.
'Ai ai cùng vợ, cùng chồng,
'Chồng cầy, vợ cấy, trong lòng vui thay.
'Tháng năm gặt hái đã xong,
'Nhờ trời một mẫu năm nong thóc đầy.
'Năm nong đầy, em xay, em giã,
'Trấu ủ phân, cám bã nuôi heo.
'Sang năm lúa tốt tiền nhiều,
'Em đem đóng thuế, đóng sưu cho chồng.
'Đói no có thiếp có chàng,
'Còn hơn chung đỉnh giầu sang một mình.
Đấy là việc làm ruộng ở vùng đồng chiêm Nam Định, Ninh Bình... một năm chỉ có một vụ lúa chiêm vào tháng năm. Còn ở vùng đồng mùa Bắc Ninh, Sơn Tây... được làm thêm vụ lúa mùa vào tháng mười:
'Kể việc làm ruộng một năm,
'Tôi xin được kể rõ ràng cho hay:
'Tháng chạp là tiết trồng khoai,
'Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà.
'Tháng ba cầy vỡ ruộng ra,
'Tháng tư gieo mạ, thuận hòa vui thay.
'Tháng năm cắt lúa vừa rồi,
'Tháng sáu mưa xuống, nước trôi đầy đồng.
'Tháng bảy cầy cấy đã xong,
'Tháng tám lúa tốt, trong lòng mừng thay.
'Tháng chín trông trời trông mây,
'Trời yên, gió lặng mới vui trong lòng.
'Tháng mười lúa chín đầy đồng,
'Gặt về đổ cót để phòng năm sau.
'Tháng mười một là tiết cấy xâu,
'Một năm kể hết từ đầu đến đuôi.
Do mấy ngàn năm dù độc lập hay bị đô hộ, người dân Việt vẫn bị cai trị theo đường lối Khổng giáo, lấy nam giới làm tiêu chuẩn để bắt lính, cũng như bắt nộp sưu thuế, nên sinh hoạt trong làng bị lệ thuộc, mà có một số quy định về nam giới theo tuổi tác như sau:
-Tuổi Thơ Ấu:
Từ khi mới sinh đến lúc 5 tuổi, chưa được kể là dân đinh trong làng. Tuy nhiên tuổi sơ sinh đã được nghe lời ru của bà, của mẹ, của chị theo tiếng võng kẽo kẹt đưa, nhập tâm truyền thống dân tộc qua thanh âm trầm bổng của thể thơ lục bát, thấm nhuần các nội dung tình tự nơi cái cò, cái vạc, cái bống, con trâu...
-Tuổi Ti Ấu:
Từ 6 đến 13 tuổi, bắt đầu được ghi tên vào sổ Hương Ẩm, tham dự việc làng qua đóng góp tế tự như người lớn. Tuổi này bắt đầu được cắp sách đi học nơi trường làng do một thầy đồ giảng dậy ngay tại nhà của thầy trong làng, nếu tỏ ra sáng dạ có thể học lên, sẽ được theo học nơi các trường cao hơn ở ngoài làng, để đi thi. Dù trượt hay đỗ cũng được liệt vào hạng có học thức, được miễn các việc tạp dịch của loại dân đinh. Thực tế cho thấy thời Khổng giáo thịnh hành, trừ các làng có đất học đỗ đạt nhiều, mỗi làng thường chỉ có mươi người - tức là khoảng vài phần trăm đủ hoàn cảnh đi học, chịu ảnh hưởng tư tưởng Khổng giáo. Còn lại đều sống hồn nhiên trong môi trường sinh hoạt cổ truyền của làng, thấm nhuần tinh thần truyền thống của dân tộc qua các cổ tích, cố sự... được chỉ dẫn một cách tự nhiên với các phong tục tập quán của làng, bằng những trò chơi có tính cách tập luyện, qua những giọng hát, điệu hò, câu đố... Chính thời ấu thơ được nuôi dưỡng bằng những chất liệu vật chất và tinh thần của làng, đã hình thành một tâm thức đặc thù, gắn bó với quê hương.
-Tuổi Dân Đinh:
Từ 13 đến 49 tuổi, nếu được học hành thông suốt kinh sách, dù đỗ đạt hay không vẫn trở thành thành phần học thức, được nể vì, thoát khỏi tầng lớp Dân Đinh, khỏi phải làm phu phen tạp dịch. Chính thành phần Dân Đinh ít học này đã hấp thụ những kiến thức về văn hóa Việt qua lối truyền khẩu đa dạng ngay trong xóm làng, rất phong phú mà không cần phải qua nhà trường. Họ là những người truyền khẩu bảo tồn, phát huy nền văn chương tư tưởng Việt Nam từ đời này qua đời nọ, không một sức mạnh văn hóa ngoại lai nào có thể tác động vào; mà còn có thể bản địa hóa nhiều thứ. Đáng chú ý là phái nữ của làng ít khi được đi học, lại là giới người thấm nhuần tình tự truyền thống của tinh thần dân tộc nhiều nhất, rồi quảng bá qua những bài ru, câu hát, điệu hò...
-Tuổi Lão Hạng:
Từ 50 tuổi trở lên, được coi là thọ và thường đã có cháu nội ngoại, nên được dân làng trọng vọng, phải làm lễ ăn khao tùy theo lệ làng. Nhưng từ 60 tuổi trở lên mới chính thức được liệt vào hàng Bô Lão, được miễn trừ sưu dịch như thành phần có học thức. Ở những làng trọng Thiên tước hơn Nhân tước - tức là trọng người nhiều tuổi hơn người đỗ đạt có địa vị, thì người cao niên còn được hưởng nhiều ưu đãi chốn đình chung hơn người đỗ đạt. Điều này có thể hiểu được, vì thời trước người Việt sinh sống bằng nghề nông rất vất vả, tuổi thọ không cao. Ai sống được đến 60 tuổi đã là qúy, nếu sống được tới 70 tuổi rất hiếm, nên mới có câu 'Thất thập cổ lai hy'.
Như vậy, từ khi Ấu Thơ đến lúc Lão Hạng, chỉ có vài phần trăm người Việt ở làng quê có thể ra khỏi lũy tre làng sinh sống, nhờ học hành đỗ đạt làm công bộc nơi triều chính, thị tứ, am hiểu Khổng giáo và hưởng các đặc ân do việc học hành này đem lại.
Do thành phần học thức này được giao phó cho nhiệm vụ phổ biến việc học, để có người nối tiếp công việc, nên họ sớm quên gốc gác nơi làng quê từ thời ấu thơ, coi Khổng giáo là đạo học của chế độ đương thời, như là đạo học của dân tộc, mà một lòng suy tôn, ca ngợi, truyền bá... không hay rằng mình đã bị tha hóa, vong thân, mất gốc rất bi thảm.
Từ khi khai tâm đi học đến khi đỗ đạt vinh thân, ra làm việc lúc nào giới học thức Việt cũng phải đeo đuổi tuân thủ, gắn bó với cái học từ chương của Khổng giáo, nên đã mụ mẫm đến độ tưởng rằng người Việt ai cũng coi đạo Tam Cương & Ngũ Thường và Tam Tòng & Tứ Đức của Khổng giáo là mẫu mực cho cuộc sống của tất cả mọi người Việt Nam, mà không thấy được rằng hơn 90% dân Việt làm nghề nông, có cuộc sống tư tưởng - tình cảm nơi xóm làng khác hẳn nơi thành thị, là chốn hầu hết bị Hán hoá, Âu hóa, đến Cộng sản hoá?!
Điều đáng lo ngại, là ngay chúng ta hiện nay nếu muốn tìm hiểu về nền văn hóa cội nguồn của dân tộc, cũng phải kinh qua các sách vở của các tác giả đã bị cái học Hán hoá, Âu hóa, Cộng sản hóa viết theo đường lối lý luận và quan điểm tha hóa, mất gốc, nên khó có thể nhận ra được những tinh túy của cội nguồn Việt Học cổ truyền, ẩn tàng trong các cổ tích, ca dao, tục ngữ, câu đố...
Ở phần Cổ Tích, chúng tôi đã thử luận bình khoảng 16 cố sự trong cuốn thứ nhất Khởi thảo Kinh Thư Việt Nam đã ấn hành, để rồi phân tích nội dung và ảnh hưởng của các cổ tích này mất còn ra sao trong suốt 2.000 năm lịch sử, từ đời Hai Bà Trưng đến năm 2012 trong các cuốn thứ 2 và thứ 3.
Ở phần Ca Dao, chúng tôi sẽ cố gắng sưu tầm lý giải một số ca dao, bấy nay các nhà khảo cứu thường vẫn chỉ đặt nặng việc sưu tầm, mà chưa phân loại đâu là những câu ca dao của người bình dân sáng tạo - đâu là những câu ca dao của giới học thức mất gốc làm ra, khiến người đọc như lâm vào mê hồn trận, khó có thể hiểu phần nào những ý tình uẩn áo truyền thống chân chính của tiền nhân muốn truyền lại, san định hệ thống hóa thành những chủ đề, hầu có thể đi tới việc xây dựng các nền tảng cho một tư duy Đạo đức học đặc thù, như các nền triết học của Đông - Tây bấy nay.
**
Trở lại chủ đề của phần này là Giáo Dục Xã Hội nơi làng xóm Việt Nam, chúng tôi xin nêu tiếp một số ca dao tiêu biểu cho việc giáo dục giúp cá nhân hội nhập với cộng đồng xã hội trong làng xóm.
Mấy bài Làng Ta và Việc Đồng Áng nêu trên, cho chúng ta thấy phần nào hình ảnh vất vả trong xã hội của người nông dân Việt Nam, khi phải đương đầu hàng năm với cả thiên tai lẫn nhân tai.
Thiên tai là sự thay đổi thời tiết bất thường như hạn hán, giông bão, lụt lội, gây mất mùa thất thu sinh ra đói kém, đã không đủ ăn mà còn bị nhân tai là bọn vua quan thường tham tàn áp đặt sưu cao thuế nặng bắt phải nộp đầy đủ, nuôi một lũ vua quan bất chính tham lam, không biết thương dân khi hoạn nạn khổ đau. Vì chỉ khi nào thấy người dân bị thiên tai làm mất hết mọi thứ, chẳng còn gì để bóc lột, lúc đó may ra triều đình mới chịu tha thuế, miễn thuế - Riêng với Cộng sản Việt Nam thì chỉ được 'giãn thuế' mà thôi!
Trong bối cảnh sống khó khăn như vậy, người nông dân Việt Nam vốn đã tằn tiện, lại càng phải tằn tiện hơn khi no cũng như khi đói, mới có thể tồn tại sinh tử cùng những cánh đồng lúa nước mênh mông, đòi hỏi phải vất vả cật lực, mới có thể có được miếng ăn:
-'Người ta đi cấy lấy công,
'Tôi đây đi cấy còn trông nhiều bề.
'Trông trời, trông nước, trông mây,
'Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm.
'Trông cho chân cứng, đá mềm,
'Trời trong, bể lặng, mới yên tấm lòng.
-'Nhác trông sao Đẩu về đông,
'Chị em ra sức cho xong ruộng này,
'Lấm lem tay cắm, chân rầy,
'Chăm lo cấy lúa, có ngày được ăn.
-'Trời cho cầy cấy đầy đồng,
'Xứ nào xứ ấy trong lòng vui ghê.
'Một mai gặt lúa đem về,
'Kính cha, thờ mẹ, nhiều bề hiếu trung.
Song song với công việc làm ruộng vất vả quanh năm ngày tháng, người dân quê Việt còn tìm cách giải trí với nhau bằng những câu hát đối thi vị, luôn mang tính giáo dục, giúp mở mang kiến thức và phô bày tình ý... cho quên phần nào nỗi mệt nhọc, buồn chán.
Một anh chàng rảnh rang đi trên đường, thấy cô gái cắm cúi cấy lúa hoặc làm cỏ trong ruộng, thì hát ghẹo:
'Cô kia có tội gì không?
'Mà sao cô phải chổng mông lên trời?
Cô gái đáp lại cắc cớ không thua, khiến chàng trai hết còn dám trêu ghẹo:
' Thưa anh, em chẳng tội chi,
'Em mà chẳng chổng, lấy gì anh sơi?
Nhiều khi là những câu đối đáp khá hiểm hóc, mang tính thử thách tài năng:
*Đố Chữ:
'-Cô Xuân đi chợ mùa Hạ,
'Mua một con cá Thu về,
'Chợ họp mỗi lúc một Đông,
'Anh mà đối đặng,
'Em theo không anh về.
Đáp:
'-Trai xứ Nam mở hàng thuốc Bắc,
'Gái Đông sàng cảm kích niềm Tây,
'Gặp nhau tình nặng, nghiã dày,
'Đối ra đáp được, em rày tính sao?
*Đố Nói lái:
'-Có cá đâu mà anh ngồi câu đó?
'Biết có không mà công khó, anh ơi?
'Để em chỉ dẫn cho nơi có cá nhiều.
Đáp:
-'Anh ngồi đây ngày đôi ba lượt,
'Anh mất công mong cất cá lên,
'Đem về làm giống nhân trên ao nhà.
Qua vài đối đáp ngắn ngủi trên, chúng ta thấy phụ nữ Việt rất thông minh sắc sảo, và sự bình đẳng nam nữ được thể hiện một cách lý thú. Điều này có thể thấy rõ qua những câu ca dao dùng để hát ru, người phụ nữ Việt không chỉ dùng để dạy bảo con cái, mà còn dùng để nhắn nhủ răn bảo chồng cũng như nam giới hàng xóm láng giềng, xây dựng bình đẳng xã hội, gián tiếp tỏ tình hoặc kể công khi muốn.
Hình ảnh con cò trắng còm nhom cần cù nhẫn nại trên các bờ ruộng kiếm mồi, trông chẳng khác bao nhiêu với hình ảnh người phụ nữ đội nón, mặc áo tơi kết bằng lá, làm việc lặng lẽ ngoài đồng, nên được phái nữ dùng nhiều nhất để diễn tả các tình ý tuy riêng mà chung. Còn cái bống thường dùng để chỉ con cái khi còn nhỏ...
Tưởng cũng nên biết rằng nữ sĩ Hồ Xuân Hương được tôn vinh là Bà Chúa Thơ Nôm, nữ sĩ Đoàn Thị Điểm cũng chuyển ngữ cuốn Chinh Phục Ngân của Đặng Trần Côn từ tiếng Hán qua tiếng Việt, được coi là hay hơn nguyên bản, Bà Huyện Thanh Quan tuy chỉ làm mấy bài thơ nôm, nhưng được coi là khuôn mẫu về cả hình thức lẫn nội dung lối thơ Đường luật Thất Ngôn Bát cú, dùng giảng dạy ở nhà trường.
Do vậy nếu nghiên cứu kỹ, sẽ thấy đa số các bài ca dao lời lẽ thanh tao, ý tình đằm thắm sâu xa bao hàm nhiều giá trị luân lý về gia đình xã hội, thường là do phái nữ làm ra.
Với con nhỏ, bài ru thường mang tính luân lý gia đình, xã hội, mà vẫn đậm đà tình cảm:
-'Cái cò là cái cò con,
'Mẹ nó yêu nó, nó còn làm thơ.
-'Cái cò, cái vạc, cái nông,
'Sao mày giẫm lúa nhà ông hỡi cò?
'Không, không, tôi đứng trên bờ.
'Mẹ con cái vạc đổ ngờ cho tôi.
'Chẳng tin thì ông đi coi,
'Mẹ con nhà nó còn ngồi đây kia.
-'Cái cò mà đi ăn đêm,
'Đậu phải cành mềm, lộn cổ xuống ao.
'Ông ơi, ông vớt tôi nao,
'Tôi có lòng nào, ông hãy xáo măng.
'Có xáo, thì xáo nước trong,
'Đừng xáo nước đục, đau lòng cò con.
Với những người chồng vũ phu, người phụ nữ có câu nhắn nhủ về tệ đoan có ảnh hưởng đến sinh hoạt từ trong gia đình đến ngoài xã hội:
-'Cái cò là cái cò quăm,
'Mày hay đánh vợ, mày nằm với ai?
'Có đánh, thì đánh sớm mai,
'Chớ đánh chập tối, chẳng ai cho nằm.
Và chỉ trích đàn ông lười biếng, theo kiểu trọng nam khinh nữ của Nho Giáo:
-'Cái cò lặn lội bờ ao,
'Hỡi cô yếm đào, lấy chú tôi chăng?
'Chú tôi hay tửu, hay tăm,
'Hay nước trà đặc, hay nằm ngủ trưa.
'Ngày thì muốn những trời mưa,
'Đêm thì muốn những đêm thừa trống canh.
Và nhiều câu có nội dung nói về công lao khó nhọc và tình yêu của người vợ đối với chồng, khi chồng phải lo nhiệm vụ với quốc gia:
-'Cái cò lặn lội bờ sông,
'Gánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ non.
'Nàng về nuôi cái cùng con,
'Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng.
'Chân đi đá lại dùng dằng,
'Nửa nhớ Cao Bằng, nửa nhớ vợ con.
'Đi thì nhớ vợ cùng con,
'Về thì nhớ củ khoai môn trong rừng
Khuyên chồng ăn ở tốt lành, hầu mở mày mở mặt với xã hội:
-'Cây xanh thì lá cũng xanh.
'Cha mẹ hiền lành để đức cho con.
'Mừng cây rồi lại mừng cành,
'Cây đức lắm chồi, người đức lắm con.
'Ba vuông sánh với bảy tròn,
'Đời cha vinh hiển, đời con sang giàu.
...
Nhận Định
Trong lũy tre làng, nếu chỉ có một thầy đồ dạy học đạo lý Khổng giáo cho một nhúm trẻ ấu ti còn thò lò mũi xanh, thì có bao nhiêu đàn bà con gái là có bấy nhiêu lời ru, câu hát, điệu hò... một hình thức như những cái máy truyền thanh hiện đại, phát ra những lời lẽ êm ái ngọt ngào, có nội dung giáo dục đánh vào tâm lý và tình cảm của mọi người, từ trẻ đến già - răn bảo nhắc nhở mọi người đừng làm điều xấu kẻo bị chê cười, nên làm các điều tốt đơn giản như ăn ở hiền lành... tạo sự phúc đức cho mai hậu, cũng đủ sức răn dạy giáo hóa có tính hồn nhiên và thường xuyên, giúp ai nấy nhập tâm - biến thành tâm thức lúc nào không hay.
Như thế trong lũy tre làng, nền giáo dục phổ biến chính là các câu ca dao được ru nhặt khoan, ngân nga theo tiếng võng đưa kẽo kẹt buổi trưa hè êm ắng - tiếng hát véo von ngoài cánh đồng lúa xanh bát ngát - các cổ tích được kể lể lúc màn đêm buông xuống, trăng lên lấp ló sau lũy tre - các tục ngữ được dùng để diễn tả những ý tưởng trong sinh hoạt hàng ngày, theo nền nếp truyền thống lâu đời...
Đó mới chính là nền giáo dục luân lý xã hội cổ truyền chân chính của đa số người dân Việt Nam, đạt trình độ rất cao thâm về tâm sinh lý, tuy chẳng cần đến trường học hay thầy cô giảng dạy hàng ngày, nhưng vẫn có thể giúp giới trẻ hấp thụ những căn bản kiến thức vừa thực dụng, vừa bay bổng, hàm chứa những ý tình giúp tư tưởng tình cảm thăng hoa mà vẫn gắn liền với thực tế cuộc sống hàng ngày, đem lại những vốn sống qúy giá được lưu truyền gạn lọc từ bao đời trau chuốt, chứ không do một nhân vật, một trường phái hay chủ nghiã duy nhất nào đề ra.
Do vậy mà nền luân lý truyền thống về gia đình và xã hội của người Việt không bị rơi vào chỗ chủ quan một chiều, luôn có tính khách quan đa chiều, không mâu thuẫn mà rất đại chúng vậy.
Giáo dục Tinh Thần Quốc Gia & Dân Tộc, là sự giáo dục quan trọng và thành công nhất của người Việt Nam ngay từ xa xưa, nhờ vậy đã giúp trải mấy ngàn năm kinh qua bao lần bị ngoại thuộc, dân tộc Việt vẫn giữ vững các truyền thống, vẫn có thể vùng dậy, giành lại độc lập dưới sự đô hộ rất thâm độc của Bắc phương, Tây phương, Cộng sản...
Trong văn chương có quan niệm cho rằng, muốn miêu tả về đề tài gì mà không cần nhắc đến tên chủ đề, vẫn khiến người đọc thấy được chủ đề, mới là tài, là hay. Cụ thể như chủ đề tả 'mùa thu', thì toàn bài không được dùng đến chữ 'thu', mà chỉ được dùng các hình ảnh về mùa thu để diễn tả, như lá vàng, sương mờ, gió heo may...
Trong cổ tích cũng như ca dao, tục ngữ - nhất là đồng dao, người Việt đã có nhiều bài nói về tình cảm yêu nước, nhưng rất ít khi thấy nhắc nhở đến hai chữ 'yêu nước', khiến bọn ngoại nhân cai trị, hay bọn mãi quốc cầu vinh như Cộng sản Việt Nam... cũng không lấy cớ gì để cấm đoán phổ biến, nên các tình tự ái quốc luôn thể hiện mọi lúc, mọi nơi.
Một đặc điểm thứ hai của việc Giáo dục tinh thần Quốc gia & Dân tộc của người Việt Nam là luôn chú trọng đến các tuổi thơ ấu và ti ấu, tức từ 13 tuổi trở xuống, nhằm không chỉ đào tạo ý thức, mà còn quan tâm đặc biệt đến việc kiến tạo tâm thức... hầu hình thành những tâm hồn yêu nước & thương nòi rất mực, đến độ nam cũng như nữ đều quả cảm hành động vì dân & vì nước, khi thấy đất nước lâm nguy - trở thành các bậc anh hùng, liệt nữ được sử sách ghi công.
Tưởng cũng nên biết là chúng ta sinh ra và phát triển lớn khôn là nhờ ơn gia đình, xã hội, quốc gia, nên cần làm những việc công ích để đền ơn; một khi có nhiều đền đáp lớn lao, sẽ được gia đình, xã hội, quốc gia 'ghi công' - chứ không hề là chuyện 'ghi ơn' khi 'trả ơn'?
Tương tự: Con cái biết ơn cha mẹ nên phải đền ơn - cha mẹ không biết ơn mà chỉ biết công báo đáp của con cái, cụ thể như câu dưới đây, thể hiện tâm tình của bề trên với kẻ dưới:
'Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể,
'Con nuôi cha mẹ, con kể từng ngày!
Để có thể thực hiện công việc vô cùng khó khăn này, người Việt đã có một loại ca dao riêng biệt, gọi là Đồng Dao giành riêng cho trẻ nhỏ.
Đồng Dao có những ca từ và ý tưởng nghe tưởng như ngô nghê, nhưng đó mới thực sự đúng với khoa sư phạm ấu nhi, mà các nhà mô phạm trên thế giới gần đây mới am hiểu áp dụng nơi các lớp mẫu giáo... Vì buổi đầu cần giúp trẻ nói tốt qua phát âm đầu đời, có thể sớm nhận biết một cách thích thú các ngôn từ chỉ sự việc theo tầm cỡ của chúng, bằng những lối ca hát truyền đạt có những âm điệu ngắn gọn dễ nghe, hình ảnh dễ nhớ... nhất là dễ hiểu, chưa cần đến những lý lẽ của người lớn. Một cách khác, nên hiểu trẻ qua chính những bức vẽ ngô nghê rời rạc diễn tả tâm ý của chúng.
Do vậy mà Đồng Dao chính là kho tàng Văn Hóa Giáo Dục quan trọng nhất của người Việt xa xưa, nhưng bấy nay bị giới học thức tha hóa vọng ngoại coi nhẹ, ghi chép bừa bãi sai lầm, nhiều khi trở thành vô nghiã, mà bị rẻ rúng. Cụ thể như bài 'Chu tri rành rành' và trò chơi mang ý nghiã sâu xa kèm theo, chúng tôi phân tích ở dưới.
Một số bài đồng dao có trò chơi kèm theo, ngụ ý giáo dục, hướng dẫn cho trẻ đường đi nước bước để chiến thắng trong cuộc chơi khi nhỏ; để rồi có thể ứng dụng tranh đấu thắng lợi cho quốc gia & dân tộc lúc trưởng thành.
\Bấy nay, ý nghiã của các trò chơi có kèm theo Đồng Dao này chưa được mấy ai diễn giảng cho trẻ hiểu, giúp trẻ có ý thức rõ rệt, thích thú hơn nữa khi chơi. Hầu hết chỉ dạy cách chơi, là điều rất đáng tiếc?!
Trong cuốn Kinh Thi Việt Nam của Trương Tửu, tác giả chỉ có một giải thích duy nhất cho bài 'Chu tri rành rành', nhưng lại đặt trong bài tựa, khiến bài tựa là phần hay nhất, hữu ích nhất, vì gợi ý cho những ai quan tâm đến ý nghiã quan trọng của đồng dao và các trò chơi, tìm cách nâng cao địa vị của các trò chơi cổ truyền trong việc giáo dục?!
Vì một khi chỉ ghi chép mà không có những lý giải hướng dẫn mục đích trọng tâm và sự hữu ích của mỗi bài hát kèm trò chơi, người quản trò sẽ khó có thể điều khiển trò chơi một cách tích cực, tạo ra những tác động sâu xa vào tâm thức trẻ em tham dự trò chơi, giúp chúng ứng dụng trong đời sống mai hậu.
Chúng tôi xin phân tích một số bài đồng dao có hoặc không có kèm theo các trò chơi, gợi vài ý theo sự hiểu biết nhỏ nhoi của mình, hầu phần nào giúp ai quan tâm có thể từ đó tìm ra thêm các ý nghiã và tác dụng sâu xa khác nữa.
Trò chơi Rồng Rắn Xin Thuốc
Đây là một trò chơi mang tính giáo dục tình ý và hành động về đoàn thể quốc gia rất cao, từ bài hát cho đến cuộc chơi, vừa vui, vừa năng động, vừa có tính chiến đấu mạnh mẽ không khoan nhượng.
Trò chơi có thể chơi chung cho từ 7 đến 12 em, hình ảnh của một bán tiểu đội đến tiểu đội trong quân ngũ. Độ tuổi tham gia từ 7 đến 13 là thích hợp nhất. Sân chơi phải đủ rộng để trẻ có chỗ đuổi bắt, né tránh.
Trẻ chơi chia làm hai phe:
-Thầy thuốc là một em lớn tuổi, đứng một mình ở một góc sân chờ đoàn rồng rắn tới xin thuốc.
-Rồng rắn là các em còn lại, do một em lớn nhất làm đầu rồng, các em xếp theo một hàng dọc thứ tự từ cao đến thấp, em thấp nhất làm đuôi, hình thành một con rồng dài uốn khúc linh hoạt khi chạy đuổi. Các em đứng sau phải nắm chặt vạt áo em đứng trước, để khi trốn chạy Thầy Thuốc không bị đứt quãng.
Trò chơi bắt đầu bằng việc đoàn rồng rắn đi lượn nhanh chậm 3 vòng quanh sân cho thuần thục, vừa đi vừa hát nhiều lần mấy câu mang ý nghiã quân sự, bảo vệ đời sống và lãnh thổ quốc gia:
'Rồng rắn lên mây
'Có nhà trời xây
'Có cây lắm trái
'Có trại điểm binh
'Có dinh ông tướng
'Có ruộng cấy cày
'Có bát cơm đầy
'No ấm ngày ngày.
Hết vòng đi thứ 3, em làm đầu rồng đến trước mặt thầy thuốc hỏi to:
-Thầy thuốc có nhà không?
Thầy thuốc trả lời:
-Thầy thuốc đi vắng rồi.
Đoàn rồng rắn đi lượn quanh sân thêm một vòng, hát đi hát lại 8 câu hát cũ, rồi đến trước Thầy thuốc, hai bên hỏi đáp như trên vài lần, sau đó Thầy thuốc mới nói:
-Thầy thuốc có nhà, rồng rắn đi đâu đấy?
Đầu rồng trả lời:
-Rồng rắn đi xin thuốc cho gà.
Thầy thuốc hỏi:
-Gà lên mấy?
Đầu rồng đáp:
-Thưa, gà lên một.
Thầy thuốc chê:
-Lên một chẳng ngon.
Đầu rồng nói:
-Thưa, Gà lên hai.
Thầy thuốc vẫn chê:
-Lên hai cũng chưa ngon.
Gần nhất, Đề đốc Hoàng Cơ Minh của Mặt trận Kháng Chiến, thân chinh về nước chiến đấu, khi lâm trận qua đời, cũng khiến tổ chức chia rẽ đổ vỡ, rất đáng tiếc.
Đầu rồng nói:
-Thưa, gà lên ba.
Thầy thuốc mới chấp nhận:
-Ngon vậy, muốn lấy thuốc cho xin khúc đầu?
Đầu rồng đáp:
-Những xương cùng xẩu.
Thầy thuốc:
-Cho xin khúc giữa?
Đầu rồng đáp:
-Những máu cùng me.
Thầy thuốc:
-Cho xin khúc đuôi?
Đầu rồng đáp:
-Tha hồ thầy đuổi.
Thầy thuốc chỉ được cho phép lấy khúc đuôi, nên bắt đầu tìm cách tóm em đứng cuối cùng, nhưng bị em làm đầu rồng dang hai tay ra cản, và các em khác cũng phải chạy vòng vèo, ngăn thầy thuốc không thể lại gần em làm đuôi, tạo ra một cuộc tranh tài đuổi bắt và trốn chạy giữa thầy thuốc và đoàn rồng rắn.
Nếu trong khi chạy đuổi né tránh, em nào tuột tay khỏi áo em phiá trước, thì em làm đầu rồng phải tìm cách chạy chậm cho mình rồng được nối lại, trong khi đó thầy thuốc vẫn có quyền đuổi bắt.
Chỉ khi nào thầy thuốc nắm bắt được em bé nhất ở cuối đuôi, thì cuộc chơi mới chấm dứt, đoàn rồng rắn chịu thua, chồng tiền nộp cho thầy thuốc, bằng cách tất cả nắm tay chồng lên nhau như chồng các chuỗi tiền, để thầy thuốc nhận bằng cách đập tay xuống, mỗi lần đập là một nắm tay bật ra, dần dần cho đến hết.
Sau đó trò chơi tiếp tục diễn lại từ đầu, nhưng hai bên đã có thêm kinh nghiệm đuổi bắt, nên ngày càng hào hứng hơn trước.
Phân tích bài đồng dao:
Nhìn vào trò chơi ta mường tượng hình ảnh Lạc Long Quân xa xưa dẫn con ra biển mở mang cõi bờ, phải cùng các con đương đầu với nhiều khó khăn, nên có thể gọi đây là trò chơi 'Đuổi Bắt Rồng Con', vì Rồng Cha là Lạc Long Quân - cùng Mẹ Tiên Âu Cơ thành lập nước Việt Nam, có ngụ ý chỉ dẫn cách bảo vệ dân con, phát triển quốc gia.
Nhưng ở đây được gọi là trò chơi 'Rồng Rắn' cho dễ gọi, và có hình ảnh dễ nhớ, là nguyên tắc chung của văn hóa giáo dục Việt Nam từ xa xưa.
Việc thêm chữ 'rắn' vào, là để biến thành danh từ kép cho thuận miệng, vừa gợi hình ảnh cụ thể của con rồng cũng tựa như con rắn, vừa lý giải chuyện xin thuốc cho gà - vì rắn thường vào nơi gà đẻ nuốt trứng gà, bắt gà con mới nở ăn thịt.
Do vậy mới phải xin thuốc chữa cho gà, hầu bảo quản nguồn thực phẩm. Nói khác đi, muốn xây dựng một nền kinh tế giàu mạnh, cần thuê mướn trả công cho những bậc thầy về kinh tế cố vấn phát triển, chứ không phải ai cũng có thể đảm đương công việc hệ trọng nhất này.
Cụ thể như việc sau 1975, Cộng sản Việt Nam đưa nhà thơ Tố Hữu lên làm Phó Thủ tướng đặc trách phát triển kinh tế, chỉ trong mấy năm cả nước lụn bại phải ăn bo bo. Sau đó Tố Hữu mất chức là chuyện nhỏ, mà nền kinh tế Việt Nam từ đó về sau phải mất nhiều thời gian mới tạm phục hồi phần nào, là chuyện lớn.
Việc Võ Văn Kiệt nhờ Tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh trợ giúp, bất kể từng là Phó Thủ tướng đối thủ thời VNCH, chứng tỏ Kiệt đã biết tìm 'thầy' chữa bệnh, đạt thành quả kinh tế sau đó.
Việc tên y tá xuất thân làm thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, được 'toàn quyền chỉ đạo' khiến nền kinh tế Việt Nam lần thứ 2 dưới thời Cộng sản lại bị suy sụp, cho thấy sự cần thiết của các bậc 'thầy' về kinh tế quan trọng ra sao?
Để đòi công, thầy thuốc phải hỏi gà đang ở độ tuổi nào, thịt có ngon hay không.
Nhưng muốn được trả công bằng gà ngon, thầy thuốc cũng phải làm việc cắt thuốc - ở đây tượng trưng bằng việc qua đuổi bắt để tìm hiểu tình hình, cũng như khả năng nắm bắt tình hình của thầy thuốc.
Qua đối thoại, cho thấy đoàn rồng rắn là một tập thể với 3 thành phần:
-Khúc đầu là người lãnh đạo, như vua và các vị tướng nguyên soái ngày xưa, tổng thống, thủ tướng ngày nay. Nhỏ hơn là các lãnh tụ, đảng trưởng. Thành phần này là nòng cốt, không được hy sinh - đem trao đổi dù với bất cứ giá nào, vì sẽ bị tê liệt tất cả 'như rắn mất đầu'.
-Khúc giữa là thành phần điều hành, như các quan triều thần, các bộ trưởng, các lãnh đạo đầu ngành, là máu huyết của đoàn thể, dân tộc, cũng phải bảo vệ, mới có thể điều hành guồng máy hoạt động hữu hiệu. Một khi máu chảy nhiều thì suy nhược, chảy hết thì chết.
-Khúc đuôi là thành phần cấp dưới như lính tráng... dù chấp nhận trao đổi hy sinh, nhưng Đầu Và Thân vẫn phải tìm cách bảo vệ đến cùng.
Và câu hát cuối 'No ấm ngày ngày' gợi ý đến một tập thể ấm no do quân đội bảo vệ khi bị ngoại xâm lấn chiếm đưa ra các điều kiện, cần chiến đấu với tinh thần kỷ luật cao, chỉ huy giỏi, đối phó hữu hiệu khi đương đầu; không được thí quân để mất mát người hay lãnh thổ, lãnh hải - đồng nghiã với thua thiệt.
Các trẻ tham gia làm rồng xếp hàng theo thứ tự từ cao đến thấp mà không theo tuổi tác - thể hiện sức mạnh của khả năng hơn tuổi tác khi thành lập đội ngũ chiến đấu; phải nắm chặt nhau, không được rời nhau - thể hiện tinh thần đoàn kết gắn bó, theo một trật tự lớn bé & trên dưới & trước sau chặt chẽ.
Phân tích trò chơi
Trò chơi mang ý nghiã Đầu Rồng là thành phần lãnh đạo, ưu tiên bảo vệ. Đồng thời Đầu Rồng cũng phải có đủ tài đức, khả năng chọn lựa xếp đặt nhân sự, tạo nên sức mạnh bảo vệ thân rồng và đuôi rồng.
Việc không chấp nhận cho Thầy thuốc khúc đầu và khúc giữa, chỉ chấp nhận cho khúc đuôi khi bất đắc dĩ phải đổi lấy thuốc chữa cho gà, tương tự nguồn kinh tế giúp sống còn... nhưng vẫn phải bảo vệ con dân đến cùng, thể hiện chủ trương chính sách lãnh đạo sáng suốt trọng dân rất mực, khiến người ta liên tưởng đến quan điểm 'Chính quyền của dân - do dân - vì dân' - phải đặt quyền dân lên trên hết của Âu Mỹ.
Trong đời sống chính trị, lịch sử xưa nay cho thấy một khi quốc gia & dân tộc mất người lãnh đạo là bị sụp đổ ngay. Biết điều này, nên hồi 1975 bọn Việt Cộng chỉ 'xin khúc đầu' là đòi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phải ra đi, khiến Miền Nam bị sụp đổ rất nhanh?!
Có thể nói trong cuộc đấu tranh gần trăm năm qua, các đoàn thể tranh đấu phe Quốc Gia tại Việt Nam thất bại, thua Pháp, thua Cộng sản nhanh chóng, chỉ vì không biết triệt để bảo vệ 'khúc đầu'; như Hồ Chí Minh trốn chui trốn nhủi ở hang Pác Bó thủ thân... trong khi đó thì lãnh tụ Nguyễn Thái Học quan niệm 'không thành công, cũng thành nhân' quyết định ở lại trong nước đấu tranh, bị Pháp bắt đưa ra xử tử hình cùng 13 nhân vật cốt cán - chẳng khác gì mất cả đầu lẫn thân?! Hậu quả là cho đến nay Việt Nam Quốc Dân Đảng bị chia rẽ trầm trọng thành gần mười hệ phái, không thể nào kết hợp trở lại được. Do vậy mà không còn đủ sức mạnh lo đại sự, vô hình chung để cho Hồ Chí Minh và bọn Cộng sản Việt Nam tha hồ hoành hành như chỗ không người từ đó đến nay?!
Tây phương hiểu rất rõ sự quan yếu của 'khúc đầu' nên thực hiện các cuộc đề cử & tranh cử ráo riết khi bầu cử tổng thống. Ngoài ra còn có những nguyên tắc bất biến của Hiến pháp để hạn chế quyền hành bằng nhiệm kỳ hạn định, bằng sự giám sát của Quốc hội và bằng sự sẵn sàng xét xử trừng phạt nếu mắc sai lầm của ngành Tư pháp. Ngoài ra báo chí còn được coi là Đệ Tứ quyền, giữ trách nhiệm theo dõi, ghi nhận, tố cáo các sai phạm lớn nhỏ nhanh chóng kịp thời, không để gây hậu quả lớn.
Hơn thế nữa, người ứng cử vai trò lãnh đạo còn cần biết tôn trọng sự được thua, không trở thành thù địch khi thất cử mà còn sẵn sàng hợp tác trong công việc vì dân, vì nước. Cụ thể như bà Hillary Clinton sau khi thất cử đau đớn, vẫn chấp nhận làm ngoại trưởng cho Tổng thống Obama, hầu có cơ hội phục vụ quốc gia.
Đạo đức về Chính trị của người Việt xa xưa đã có những tấm gương tranh cử và nhường quyền, như chuyện Lang Liêu được ngôi vua do tinh thần thực dụng, biết dùng những vật phẩm bình thường để chế ra những thực phẩm khác thường có thể phổ biến rộng rãi, mà lại mang được các ý nghiã về vũ trụ quan và nhân sinh quan rất cao. Sơn Tinh tranh tài với Thủy Tinh trong việc nhỏ là lấy vợ, nhưng trong đại sự quốc gia & dân tộc, sẵn sàng nhường quyền cho Thục Phán để đổi lấy sự hòa bình giữa hai nước lân bang có nhiều tương đồng, hầu kết hợp làm nên sức mạnh - thay vì chém giết hủy hoại nhau như tình cảnh gần đây ở trong nước thời VNCH trước 1975, ở hải ngoại sau 1975!
...
Bài hát và trò chơi còn gợi nhớ đến hình ảnh Cha Rồng ngày xưa, dẫn 50 người con xuống vùng biển bình định mở mang cõi bờ. Đó cũng là hình ảnh những người Cha Việt sau 1975 đưa con vượt biển tìm tự do, bố con phải nắm áo nhau mò mẫm trong đêm đen, cho khỏi lạc nhau, mất nhau. Cả hai trường hợp đều cần đến những người cầm đầu tài đức quả cảm, những người quản lý điều hành giỏi và kỷ luật... mới có thể thành công trong việc tạo dựng một cộng đồng vững mạnh nơi hải ngoại, phát triển tốt đẹp, có khả năng kiến quốc, phục quốc.
Tất cả những bại vong bấy nay, phải chăng chỉ vì không được hướng dẫn, giải thích khi tham gia trò chơi Rồng Rắn từ thời thơ ấu, để có một tâm thức đấu tranh sáng suốt, người lãnh đạo biết chỉ đạo đoàn kết chặt chẽ, người thừa hành biết tuân thủ giữ kỷ luật khi tiến khi lui như lũ trẻ.
Vai Đầu Rồng tuy bản thân xông pha đứng ra đối đầu, nhưng không bao giờ chấp nhận cho đối thủ gây nguy hiểm tới bản thân, và các thành phần nòng cốt? Còn phần Thân và phần Đuôi cần tôn trọng và nghe theo người cầm đầu... cũng như phải xiết chặt hàng ngũ, đoàn kết một lòng, khi tiến cũng như khi lui, lúc thắng cũng như lúc bại...
Nên phân biệt sự bảo trọng bản thân của người lãnh đạo chỉ huy đại cuộc, khác với sự hèn nhát 'tham sinh - úy tử' tầm thường. Vì chết tuy khó, nhưng dù sao vẫn không bằng sống để có thể tiếp tục đấu tranh gian khổ hơn trước. Vì chọn cái chết chẳng khác gì chấp nhận sớm bản án tử hình cuả kẻ thù, khi vẫn còn cơ hội khi 'thua keo này - bày keo khác' như châm ngôn tranh đấu của tục ngữ Việt Nam?!
Trò chơi Chu Tri Rành Rành
Nếu trò chơi Rồng Rắn dạy cách chiến đấu của thời kỳ chịu ảnh hưởng văn hóa Đông phương, lắm khi cả nhà vua nhiều lúc cũng phải thân chinh cầm quân như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Nguyễn Huệ... thì sau khi tiếp súc với Tây phương, thời Triều đình Nhà Nguyễn bị thất bại thảm thương, người Việt đã nhận ra là cần phải có phương pháp đấu tranh mới, để có thể chiến thắng trong tình hình mới. Và trò chơi 'Chu tri rành rành' xuất hiện, cùng trò chơi Mô Tê trốn tìm - chỉ dẫn cách lãnh đạo và trốn tránh kẻ địch khi bị truy nã. Hai chữ Mô Tê là đặc ngữ của miền Trung Việt, chứng tỏ bài đồng dao và hai trò chơi này xuất phát cùng lúc từ Miền Trung, ngay nơi dân tộc cùng triều đình nhà Nguyễn phải đương đầu với bọn thực dân Pháp rất khốc liệt, đòi hỏi cần có chiến thuật - chiến lược đối đầu mới mẻ hữu hiệu.
Nhận xét kỹ, chúng ta thấy Phong trào Cần Vương sở dĩ có thể đương đầu lâu dài với Pháp hơn triều đình Huế và phong trào Văn Thân, là do biết áp dụng chiến thuật của Chu Tri Rành Rành và Mô Tê. Cụ thể là Phan Đình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Trung Trực... biết dùng chiến thuật du kích mới mẻ, ẩn náu chốn rừng xanh núi thẳm, đợi thời cơ bất ngờ đánh Pháp thất điên bát đảo nhiều phen, liên tiếp trong suốt hàng chục năm.
Trò chơi này đã được học giả Trương Tửu nêu lên ở phần 'Trước khi vào đề' trong cuốn Kinh Thi Việt Nam - mà chúng tôi thấy đáng ghi nhận hơn những lý giải khác. Nơi đây chúng tôi chỉ xin trình bày lại theo bố cục chung của phần này, hầu dễ nhận định, rồi mới thêm vài ý kiến riêng tư:
'Chu tri rành rành
'Cái đanh nổ lửa
'Con ngựa đứt cương
'Ba vương tập đế
'Cấp kế đi tìm
'Hú tim oà... ập
Phân tích bài hát
-'Chu tri rành rành' là báo cáo cho mọi người biết rõ.
-'Cái đanh nổ lửa' nói về việc quân Pháp bắn vào cửa biển Đà Nẵng năm 1856, khởi đầu cho việc Pháp tiến đánh, chiếm Việt Nam.
-'Con ngựa đứt cương' chỉ vào sự kiện vua Tự Đức mất năm 1883, khiến kỷ cương triều đình rơi vào tay hai đại thần Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường, gây ra những sự chỉ đạo sai trái như giết cả vua, cách chức các vị quan tài đức.
-'Ba vương tập đế' chỉ việc Tường - Thuyết chuyên quyền, giết hại nhiều người trung thực, làm trái cả di chúc của vua Tự Đức, hãm hại 3 vị vua liên tiếp: giam Dục Đức vào ngục, lập Hiệp Hòa làm vua. Sau lại giết Hiệp Hòa, đem Kiến Phúc thay thế. Rồi lại giết Kiến Phúc, tôn Hàm Nghi lên ngôi.
-'Cấp kế đi tìm' chỉ việc Tường Thuyết đem vua Hàm Nghi trốn khỏi Huế, xuống chiếu Cần Vương chống Pháp, khiến bọn Pháp phải khẩn cấp tìm kế bắt vua Hàm Nghi, dẹp phong trào Cần Vương.
-'Hú tim òa... ập' chỉ việc tên Trương Quang Ngọc phản bội, đưa người đang đêm ập vào bắt vua Hàm Nghi ở rừng Tuyên Hóa.
Nội dung 6 câu đồng dao nhằm diễn tả một giai đoạn lịch sử tao loạn, thù trong giặc ngoài, cần có biện pháp giải quyết. Biện pháp này được thể hiện trong 2 trò chơi kèm theo là Chu tri rành rành và Ú tim (trốn - tìm, còn gọi là Mô Tê là hai tiếng báo hiệu của trẻ sau khi trốn, đã chạy được về điểm khởi đầu mà không bị bắt), nêu rõ trong câu đầu và câu cuối của bài đồng dao.
Phân tích trò chơi
Số trẻ tham gia trò chơi từ 3 tới 7, tức là đủ chỗ cho những ngón tay trỏ đặt vào lòng một bàn tay. Tuổi tham gia trò chơi này khá lạ lùng, là có thể từ em bé 3 tuổi đến thiếu niên 15 tuổi, đều thích thú khi tham dự.
Đầu tiên, một em xòe ngửa một bàn tay của mình, cho các em khác đặt ngón tay trỏ của mình vào, rồi đọc hoặc hát 6 câu đồng dao trên. Đến chữ 'ập' thì em xòe bàn tay nắm bàn tay của mình thật nhanh, ngón tay trỏ của ai chậm rút ra bị giữ lại, là thua, phải xòe bàn tay của mình cho người khác đặt các ngón tay trỏ vào, tiếp tục trò chơi; hoặc phải tìm bắt những người khác trong trò chơi Ú tim tiếp theo.
Ngón tay trỏ thường dùng để chỉ trỏ, tiêu biểu cho sự lãnh đạo chỉ huy. Do vậy cần nhặm lẹ ứng phó, mới không bị bắt giữ, thua cuộc. Trò chơi ngụ ý người lãnh đạo chỉ huy thời buổi va chạm với nền văn minh cơ khí của Tây phương cần nhanh chóng thay đổi tư duy, không thủ cựu & hủ lậu chậm tiến như triều đình nhà Nguyễn, đã làm mất nước.
Học giả Trương Tửu đã bình luận về các câu đồng dao và trò chơi này, trong cuốn Kinh Thi Việt Nam như sau:
'Một nhà phê bình văn chương Pháp - P. Lafargue - đã viết rất đúng: 'Một bài ca bình dân thường là do người vô danh nào đó khẩu chiếm ra, rồi lần lần qua miệng các người vô danh khác sửa chữa đi một cách rất ngẫu nhiên; không riêng một ai in bản sắc của mình vào đó, mà tất cả mọi người đều có dự phần nào. Tác giả đích thực của bài ca chính là dân gian. Dân gian hát nó lên, truyền cho nhau, cứ thay đổi dần dần mãi đến bao giờ bài ca phản chiếu đúng hẳn tâm lý của họ, thì mới được công nhận hoàn toàn'.
'Theo lẽ đó, ở những thi ca bình dân, ta chỉ nên tìm đến tâm lý các người tác thành ra chúng. Nguyên tắc này phải là định lệ căn bản cho sự nghiên cứu ca dao bất kỳ ở xứ nào hay dưới thời nào.
'Dưới ánh sáng của nguyên tắc ấy, bài 'Chu tri rành rành' lộ ra tất cả tâm lý của dân gian Việt Nam, vào quãng giữa thế kỷ 19. Quả vậy ta hẵn khoan nhắc đến những việc lịch sứ ứng nghiệm với câu hát trẻ con đó, như ông già nọ đã chú thích, mà chỉ nghiên cứu cái ý nghĩ tâm lý của nó. Đọc hết câu 'Chu tri rành rành' cảm tưởng đầu tiên của ta là đang chứng kiến một cái gì đó bị thua, một cái gì bị giam hãm, một cái gì vừa bị mất đi. Đứng xem lũ trẻ thực hiện trò chơi ấy, cảm tưởng kia mới càng rõ rệt. Cái bị thua là đứa trẻ chậm hơn các bạn, không rút ngón tay ra kịp. Cái bị giam hãm là ngón tay trỏ của đứa bé ấy (nghiã bóng là quyền sai khiến: ngón tay trỏ là biểu hiệu của quyền sai khiến), cái bị mất đi là quyền tự do của đứa trẻ chậm chạp kia (nó phải đuổi bắt các đứa khác để đòi lại cái tự do bị đoạt mất).
'Câu hát và trò chơi đều biểu thị một cuộc tranh hơn thua, trong đó kẻ nào chậm chạp sẽ bị thất bại, bị mất chủ quyền cho đến bao giờ nhanh nhẹn được bằng các bạn mới lấy được về (có nhanh bằng thì mới đuổi bắt được). Cái tâm lý đẻ ra câu hát kia là tâm lý của dân gian chán nản cái chủ quyền đại diện họ đã vì yếu, vì chậm, mà bị thua bị mất. Cho nên, câu hát đã tận cùng bằng sự tận cùng (oà... ập!).
'Cái tâm lý đẻ ra trò chơi Mô Tê - mà câu chu tri chỉ là một đoạn nhập cục - là tâm lý của dân gian tin tưởng ở cuộc khôi phục tương lai của cái tự do mất đi bằng sự nỗ lực tiến hóa của chính mình. Tôi nói: của chính mình, nghiã là dân gian không còn tin ở cái chính quyền đại diện họ nữa. (trong trò chơi, lúc ngón tay đứa bé bị giam hãm thì chính đứa bé ấy phải giải phóng nó, chứ tự nó, có giải phóng được nó đâu).
'Tóm lại, bằng cách dùng câu hát ấy vào một trò chơi ý nghiã, dân gian đã tỏ rõ tâm lý mình, nó chỉ là một Ý Muốn Tồn Tại mãnh liệt.
(trích Kinh Thi Việt Nam của Trương Tửu, các trang 15, 16, 17)
**
Trong kho tàng trò chơi cổ truyền của trẻ em Việt Nam, nếu nghiên cứu sẽ thấy mỗi trò chơi đều nhằm tôi luyện cơ thể, từ thể chất đến tinh thần, từ đầu óc, trái tim đến tay chân; hầu nếu không học tập giỏi, thì thanh thản về làm việc đồng áng chăm chỉ, cũng là hữu dụng:
'Văn chương phú lục chẳng hay,
'Trở về làng cũ, học cầy cho xong.
'Ngày ngày vác cuốc thăm đồng,
'Hết nước thì lấy gầu sòng tát lên.
'Hết mạ ta lại gánh thêm,
'Hết lúa ta lại mang tiền đi đong.
'Nữa mai lúa chín đầy đồng,
'Gặt về đập sẩy bõ công cấy cầy.
Tức là Sĩ và Nông đều quan hệ như nhau, như câu:
'Nhất Sĩ, nhì Nông,
'Hết gạo chạy rông,
'Nhất Nông nhì Sĩ.
Chứ không hề phải tuân thủ theo thứ tự 'Sĩ - Nông - Công - Thương' như Nho Giáo.
Nhưng đó là trong thời bình, còn trong thời loạn khi 'giặc đến nhà' không chỉ 'đàn bà phải đánh', mà ngay trẻ con cũng tham gia. Như các câu chuyện được truyền tụng về Phù Đổng Thiên Vương, Trần Quốc Toản...
Việc Đinh Bộ Lĩnh thời trẻ đã tập trận, dùng hoa lau làm cờ điều binh, sau trở nên tướng giỏi dẹp loạn 12 sứ quân, lên làm vua, cho thấy dân tộc Việt Nam sở dĩ có thể tồn tại độc lập, không Bị Trung Quốc đồng hóa, sáp nhập sau bao lần đô hộ, là do truyền thống giáo dục lòng yêu nước đi vào tâm thức từ thời ấu thơ, thăng hoa khi lớn, giúp mọi người nhiệt tình dấn thân tham gia việc giữ nước một cách tích cực, biết hy sinh cho đại cuộc bảo vệ cõi bờ, lúc đất nước lâm nguy cũng như thời thái bình.
Một số 'hèm', tức là những kịch bản dân gian ngoài trời trong lễ hội của một số làng, diễn lại các chiến công đánh giặc ngoại xâm của một số vị Thần Thành Hoàng của làng, cũng có tác dụng đến tâm thức yêu nước của người Việt từ thời thơ ấu.
Thời bình, người Việt sẵn sàng làm nghiã vụ quân dịch 3 năm, canh giữ bảo vệ các cơ sở quan yếu, từ chốn rừng xanh đến vùng đồng bằng, chẳng quản khó khăn:
'Ba năm trấn thủ lưu đồn,
'Ngày thì canh điếm, tối dồn việc quan.
'Chém tre, đốn gỗ trên ngàn,
'Uống ăn kham khổ, phàn nàn cùng ai?
'Miệng ăn măng trúc, măng mai,
'Những giang cùng nứa, lấy ai bạn cùng?
'Nước giếng trong con cá vẫy vùng.
Thời chiến thì tham gia trận mạc, tuy bộc lộ những tình cảm buồn thương của một người bình thường, có thể đến độ ứa nước mắt, nhưng vẫn 'xuống thuyền' đi theo tiếng gọi của núi sông, không có chuyện trốn lính hay phản chiến... hèn yếu như sau này; đến độ phải hô hào, thúc đẩy bằng những loại thơ nhạc tuyên truyền bịp bợm 'lên gân' đầy sắt máu như bọn Cộng sản Việt Nam ngay trong bản 'quốc ca' của họ:
'Ngang lưng thì thắt bao vàng,
'Đầu đội nón dấu, vai mang súng dài.
'Một tay thì cắp hỏa mai,
'Một tay cắp giáo, quan sai xuống thuyền.
'Thùng thùng trống đánh ngũ liên,
'Bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa.
Chính nhờ sự tôi luyện từ tấm bé qua các bài hát ru, các trò chơi kèm các bài đồng dao, các hèm lịch sử... mà người dân Việt đã hình thành được một tâm thức yêu nước rất cao, sẵn sàng hy sinh xương máu khi Tổ quốc lâm nguy, chẳng cần đến thơ văn tuyên truyền kích động.
Nhìn vào lịch sử Việt Nam, mỗi khi có vua giỏi, tướng tài lãnh đạo chỉ huy, người lính Việt đều đánh thắng các thế lực ngoại xâm thù địch, dù kẻ địch đông và mạnh mẽ hơn gấp nhiều lần, như trong các trận chiến lừng danh của Lý Thường Kiệt phá Tống, Trần Hưng Đạo đánh quân Nguyên, Lê Lợi đánh quân Minh, Quang Trung đánh quân Thanh... trong khi thi ca bình dân chỉ có những bài nhỏ nhẹ khuyên nhủ nhau, người này sẵn sàng thay thế khi người kia làm bổn phận giúp nước một cách bình thản:
'Anh ơi, phải lính thì đi,
'Cửa nhà đơn chếch đã thì có tôi.
'Tháng chạp là tiết trồng khoai,
'Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà.
'Tháng ba cầy bở ruộng ra,
'Tháng tư gieo mạ thuận hòa mọi nơi.
'Tháng năm gặt hái vừa rồi,
'Trời đổ mưa xuống, nước trôi đầy đồng.
'Anh ơi, giữ lấy việc công,
'Để việc cầy cấy mặc lòng em đây.
Và người đi cũng khuyên người ở lại yên tâm:
'Cái cò lặn lội bờ sông,
'Gánh gạo đưa chồng, tiếng khóc nỉ non.
'Nàng về nuôi cái cùng con,
'Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng.
'Chân đi đá lại dùng dằng,
'Nửa nhớ Cao Bằng, nửa nhớ vợ con.
'Đi thì nhớ vợ cùng con,
'Về thì nhớ củ khoai môn trên rừng.
Nghiên cứu ca dao trải qua lịch sử chống xâm lăng, tuy có rất nhiều anh hùng & liệt nữ, nhưng chúng ta ít thấy có sự hô hào hò hét đâm chém máu lửa, cho thấy tâm thức người Việt rất nhân ái, coi việc chiến tranh là bất đắc dĩ; nhưng khi cần nhập cuộc thì rất anh dũng, coi nhẹ mọi gian nguy.
Nguyên do người Việt đã thấm nhuần tình tự dân tộc qua những bài hát ru, những câu đồng dao, những trò chơi tao luyện tinh thần và thể chất từ tấm bé, nên khi quốc gia lâm nguy, từ già đến trẻ, từ nam đến nữ, tự biết bảo nhau làm nghiã vụ cao cả; tuy tâm tư buồn hơn vui, nhưng đó mới phản ảnh đích thực tâm trạng con người, không giả dối.
Hầu hết các văn nghệ sĩ dưới chế độ Cộng sản Miền Bắc, từng làm thơ nhạc kích động mọi người hy sinh chiến đấu, đến khi Việt Cộng thành công, cai trị áp bức bóc lột đồng bào rất tàn ác, hơn cả kẻ từng bị coi là thù địch... mà vẫn cúi đầu chấp nhận rất đáng hổ thẹn!
Chỉ một số rất ít người cuối đời mới viết những bài văn thơ bày tỏ sự ân hận, như Chế Lan Viên, Tô Hoài, Nguyễn Khải, Nguyễn Đăng Mạnh, Tô Hải...
Giác ngộ ngay từ đầu là nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm hồi năm 1956, nhưng bị triệt hạ quá tàn nhẫn, khiến ai nấy hoảng sợ mất hết hùng tâm & chính khí.
Tình cảm Yêu Nước của người Việt xa xưa chỉ đơn giản nhắc đến chủ quyền bị xâm phạm, cũng đủ khiến ai nấy bừng bừng dũng khí, như bốn câu thơ của Lý Thường Kiệt khi đánh thắng quân nhà Tống từng làm bá chủ Trung Hoa một thời:
'Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư
'Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
'Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
'Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Nguyễn Tycal dịch:
'Nước Nam của Vua Nam
'Sách trời định rõ ràng
'Kẻ nào tới xâm phạm
'Ắt bị ta đánh tan.
Nhận định
Thiển nghĩ ngày nay muốn chiến thắng Cộng sản Việt Nam - một chế độ rất tai quái - ngoài việc dạy trẻ nhỏ phải biết đoàn kết và tôn trọng người chỉ huy lãnh đạo trong khi chơi các trò chơi Rồng Rắn, Chu Tri Rành Rành, Mô Tê... còn cần sáng tạo thêm các trò chơi mới tao luyện tâm thức đấu tranh của giới trẻ?
Hiện chúng ta đã và đang bị tha hóa - vong thân vì một số người lãnh đạo tôn giáo và đảng phái thiếu sáng suốt, làm mất mẫu số chung là quốc gia & dân tộc, nên mới chia rẽ đấu đá nhau, quên lời khuyên chí tình mang dấu ấn của nhân sinh quan truyền thống 'đồng bào' do Mẹ Âu Cơ dạy:
'Khôn ngoan đối đáp người ngoài,
'Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.
Hèm Phù Đồng Thiên Vương được diễn ra tại làng Gióng bao năm qua, nay được Liên Hiệp Quốc công nhận là Di sản Văn Hóa của Thế Giới, chứng tỏ có giá trị lớn lao về tư tưởng, tâm lý, tình cảm, hành động.
Cụ thể như các ẩn dụ của việc Thánh Gióng nhỏ tuổi, không biết nói, nhưng khi nghe lời mõ rao cần người cứu quốc, bỗng nhiên ngỏ lời... thể hiện việc giúp nước cần sự hành động hơn là chuyện nói năng bàn cãi?
Vũ khí của Thánh Gióng là thanh kiếm và cái roi, thể hiện việc chiến tranh luôn bao gồm 2 phần đánh chém của kiếm và răn dạy của roi.
Khi thắng trận, Thánh Gióng đã bay về trời, thể hiện giúp nước là trách nhiệm, không cần kể công lao, đòi hỏi đền đáp. Trong khi với Cộng sản Việt Nam thì họ đã tìm đủ cách kể công, lấy công ra làm lý do để chuyên quyền đàn áp, bóc lột người dân.
Như vậy các 'hèm' chính là những trò chơi lớn, được người Việt mở rộng không gian trình diễn để đề cao các tấm gương, các bài học về tư tưởng, hành động vì nước vì dân, nhằm giáo dục cả nhân quần xã hội.
Một khi lễ hội Thánh Gióng đã được Liên Hiệp Quốc công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới, chứng tỏ tổ chức kết hợp nhân loại này muốn mọi người trên thế giới học hỏi tấm gương anh hùng mang rất nhiều ý nghiã của Việt Nam.
Người Việt hơn bao giờ hết cần nghiên cứu, phát triển những bài học phong phú giá trị trong chính nền văn hóa của mình - phổ biến sâu rộng ra thế giới; song song với việc chọn lựa học hỏi thêm các tinh hoa của nhân loại.
Điều này nằm ngay trong tay mỗi nhà giáo dục, không cần chờ đợi phải có chương trình khuôn mẫu... như người xưa từng thực hiện đơn lẻ, 'Góp gió thành bão'.
Copyright © 2024 Giao Su XKZ - All Rights Reserved.
Powered by GoDaddy
We use cookies to analyze website traffic and optimize your website experience. By accepting our use of cookies, your data will be aggregated with all other user data.