Có thể nói Người Việt trước khi bị Trung Quốc đô hộ và các tôn giáo & tư tưởng ngoại lai xâm nhập, đã có những đường lối Giáo Dục đạt tới trình độ mang tính 'Nghệ Thuật', cao siêu hơn trình độ mang tính 'Kỹ Thuật' của các nền giáo dục Đông Tây bấy nay.
Bằng chứng trước kia, nhiều quốc gia quan niệm 'Học ra học - Chơi ra chơi', rồi tiến đến quan niệm 'Vừa học - Vừa chơi'... hiện đại, thì từ mấy ngàn năm về trước, Người Việt đã có quan niệm 'Chơi mà Học - Học mà chơi' - nhất là 'Chơi mà không biết mình đang Học' khi biết dùng các trò chơi, các câu hát để dạy những bài học về nhiều phương diện khác nhau, cho từ trẻ con đến người lớn, giúp ai nấy dễ hiểu, dễ nhớ, ghi tâm khắc cốt các kiến thức đủ loại, hầu có thể đem ứng dụng trong suốt cuộc sống của mình.
Nơi đây chúng tôi xin phân tích - trình bày 'Nghệ thuật truyền đạt & giáo dục' của Người Việt xa xưa bằng ca dao & đồng dao, tục ngữ, câu đố, vè... qua một số bộ môn căn bản của cuộc sống, như Ngôn ngữ học, Văn học, Khoa học, Toán học, Tâm lý học, Đạo đức học, Chính trị học, Xã hội học, Tình dục học...
Đường lối Giáo dục Tư tưởng của người Việt thể hiện một cách nhẹ nhàng những ý nghiã sâu sắc lớn lao, đến độ đã khiến nhiều thế hệ học thức cao, được giao phó trọng trách lập chương trình, viết sách giáo khoa bao năm qua... cũng không thể hiểu biết, mới dám coi thường, miệt thị là 'Văn học Bình dân'?!
Do vậy mới có chuyện chương trình Quốc văn của Việt Nam bấy nay phân biệt:
**Văn chương Bác Học: là loại văn chương của giới theo học các kiến thức của Tàu - Tây... làm ra, chịu ảnh hưởng ngoại lai rất nặng nề.
**Văn chương Bình Dân: là loại văn chương của người dân bình thường làm ra, thể hiện tinh thần truyền thống Việt Nam.
Đáng ngạc nhiên là chính giới học thức mấy ngàn năm qua viết sách, soạn chương rình giảng dạy Quốc văn, đã vì tha hóa & vong bản mà thiếu quan tâm - hoặc chưa đủ khả năng để có thể lý giải các nội dung uyên bác ẩn tàng trong nền văn học mà họ miệt thị là 'bình dân'.
Điều này đã được chính một số học giả từng được coi là 'cây cổ thụ' của nền văn học bác học Việt Nam thừa nhận:
-Năm 1928, trong bài 'Tựa' của sách 'Tục Ngữ - Phong Dao' có ghi chú ngay bên dưới câu 'Một kho vàng chung của nhân loại', tác giả Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc viết: 'Đối với công việc sưu tập bây giờ, thiết tưởng ta còn phải qúy hồ đa trước rồi nhiên hậu mới có nơi khảo cứu mà qúy hồ tinh được'.
-Năm 1938, trong bài 'Tục ngữ - Phong dao và Địa vị của nó trong Văn học' trên báo Tao Đàn, Phan Khôi nhận định: 'Sau một hồi nghiên cứu về Tục ngữ - Phong dao, tôi thấy ra nó có cái địa vị trong văn học vững vàng mà rực rỡ lắm. Vậy tôi muốn có nhiều người nghiên cứu thêm nữa, có lẽ sẽ phát kiến nhiều cái trọng yếu và qúy giá hơn nữa chăng?
-Năm 1940, trong bài kết thúc cuốn 'Kinh Thi Việt Nam', tác giả Trương Tửu viết: 'Tôi thắp hương cầu nguyện cho chóng ra đời quyển Kinh Thi Việt Nam ấy - Kinh Thi của chúng ta, của tất cả những người Việt Nam trong dĩ vãng, trong hiện tại, trong mai hậu'.
-Năm 1977, trong cuốn 'Tục Ngữ, Ca Dao, Dân Ca Việt Nam', Vũ Ngọc Phan viết: 'Tình cảm và tư tưởng của nhân dân lao động, những con người chất phác, không giống tình cảm và tư tưởng của giai cấp phong kiến thống trị, nên việc sắp xếp theo nội dung cần phải rất thận trọng. Trên nhận thức thì như vậy, nhưng khi bắt tay vào việc, trước những tài liệu bề bộn, phức tạp, lại một số chưa chính xác, chúng tôi nhận thấy chúng tôi cũng chỉ mới đạt tới một trình độ thấp trong việc sắp xếp theo nội dung. Vì đặt một câu, một bài theo đúng nội dung chính của nó, theo đúng khiá cạnh chính của nó là một việc khó'.
Cụ thể như bài 'Thằng Bờm' mang nội dung giáo dục tư tưởng Anh Hùng, rất cao xa của truyền thống 'Nhân + Trí = Hùng', nhưng bấy nay chưa được ai lý giải về nụ cười của Bờm, khiến nó cũng trở thành khó hiểu như nụ cười của nàng Mona Lisa trong tranh vẽ Leonard de Vinci, khi chúng ta có thể lý giải ý nghiã của nụ cười là phủ nhận hay chấp nhận, vui vẻ hay mỉa mai, cười tủm hay cười khì... khác hẳn nhau?
'Thằng Bờm
'Thằng Bờm có cái quạt mo.
'Phú Ông xin đổi ba bò, chín trâu.
'Bờm rằng: Bờm chẳng lấy trâu,
'Phú Ông xin đổi ao sâu cá mè.
'Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mè.
'Phú Ông xin đổi ba bè gỗ lim.
'Bờm rằng: Bờm chẳng lấy lim.
'Phú Ông xin đổi đôi chim đồi mồi.
'Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mồi.
'Phú Ông xin đổi nắm xôi, Bờm cười.
Bài đồng dao trên nhằm kể lại một sự tích như sau:
Bờm là hình ảnh tiêu biểu cho một đứa trẻ nông thôn bình dân, thường có mái tóc cắt như cái bờm ngựa. Một hôm Bờm được ông Tiên thấy Bờm ngoan ngoãn, cho Bờm một cái quạt mo có phép, có thể ước một điều gì mình muốn.
Phú Ông tiêu biểu cho lớp người giầu có trong làng, có đầy đủ các ước muốn bình thường về đời sống vật chất, nhưng thiếu các giá trị tinh thần - vì hai chữ 'phú ông' khẳng định chỉ là một ông nhà giàu có nhiều của cải mà thôi - nên khi thấy thằng Bờm có quạt mo có thể ước ao các điều cao xa hơn, thì liền gạ đổi.
Phú Ông đưa ra những thứ có giá trị vật chất lớn đối với người sống ở nông thôn, như trâu bò làm ruộng, ao sâu nuôi cá làm giầu, gỗ lim bền chắc làm nhà cao cửa rộng. Riêng chim là thứ trẻ con rất ưa thích, đôi chim đồi mồi ngoài vẻ đẹp và tiếng hót hay, còn được sự tích kể là loài qúy hiếm mùa hè làm mát mẻ & mùa đông làm ấm áp trong nhà.
Bờm từ chối tất cả các giá trị vật chất lớn, và cả thú vui nhất của tuổi trẻ là nuôi chim, để chỉ nhận 'nắm xôi', do đâu?
Muốn biết, chúng ta phải hiểu rõ phong tục tập quán của đời sống nơi các làng quê Việt Nam, qua câu:
'Một miếng giữa làng,
'Bằng một sàng xó bếp.
Các làng Việt Nam từ xa xưa đã có 'Lệ Làng' là những quy định như bộ luật bất thành văn, không những được mọi người trong làng tôn trọng, mà triều đình cũng công nhận để nhiều khi phải thừa nhận:
'Phép vua thua lệ làng.
Đến thời Vua Thiệu Trị vào năm 1844 mới thấy ghi nhận về việc lập văn tự cho lệ làng, qua một số bản Hương Ước - cụ thể như của làng Phú Phong, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Trong Hương Ước làng này có một khoản ghi: 'Ai học hành tiến đạt, đỗ cao thưởng 1 quan, đỗ cao hơn thưởng 2 quan, dần dần lên đến 10 quan'.
Trong khi đó ở Bắc Việt cũng có nhiều nơi ghi chép lệ làng thành Hương Ước, luôn có các điều nhằm khuyến học, như Hương Ước của làng Trực Tuấn, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, ghi 'Trích 8 sào ruộng học điền, lấy tiền làm giải thưởng khuyến khích trẻ trong làng học tập'...
Từ việc thưởng tiền, các Hương Ước còn quy định ngôi thứ trong làng theo Nhân Tước và Thiên Tước. Thiên tước là tùy theo tuổi tác mà được xếp ngồi trên hay dưới nơi đình chung, trong các dịp hội hè cỗ bàn. Nhân tước là tùy theo địa vị và bằng cấp.
Các quy định về Thiên tước hay Nhân tước trong Hương Ước còn được căn cứ vào đó, để chia phần mang về, sau khi ăn uống giữa đình làng vào các dịp lễ lớn.
Phần chủ yếu gồm một nắm xôi (do lấy tay nắm chặt) có kèm một miếng thịt. Nắm xôi thì giống nhau, nhưng miếng thịt thì tùy theo tước vị mà được miếng đầu, miếng cổ - là hai nơi tuy xương xẩu lại danh giá nhất, vì được coi là có vị trí đàn anh đứng đầu trong làng.
Như vậy 'nắm xôi' thể hiện phần thưởng cao về tinh thần nơi thôn dã, là niềm hãnh diện của người dân quê, nên mới có câu:
'Một miếng giữa làng,
'Bằng một sàng xó bếp.
Muốn có 'một miếng giữa làng' tuy chỉ là 'nắm xôi' , nhưng lại thể hiện ngôi thứ cao thấp giữa làng, phải là người cao tuổi đáng trọng, hoặc có tài đức học giỏi - đỗ cao - làm lớn; có nhiều công trạng với làng, với nước.
Một số nơi khi thi đỗ tiến sĩ còn được:
'Làng làm cổng.
'Tổng làm nhà.
Sự kiện những đám rước vinh quy, những hèm diễn lại các sự tích anh hùng của các vị thành hoàng các làng... đã tiêm nhiễm vào lũ trẻ nhà quê những ước vọng cao xa, hình thành một tâm thức cao cả.
Chính vì thế mà Bờm mới ao ước nắm xôi nơi đình chung, vì hiểu rõ một khi tài giỏi không chỉ có đủ mọi thứ từ vật chất đến tinh thần, mà còn được ai nấy ngưỡng mộ đón rước long trọng. Còn các thứ Phú Ông đưa ra, chỉ là những giá trị vật chất bình thường - ngay bản thân các Phú Ông cũng thường bị coi nhẹ, bị gọi là Trọc Phú... và so sánh:
'Nhà giàu xứ quê.
'Không bằng ngồi lê ngoài tỉnh.
Tưởng cũng nên biết, trong tín ngưỡng Việt Nam, xôi nấu từ gạo nếp là phẩm vật để cúng chính yếu nhất, dùng cho cả hai việc cúng chay hay cúng mặn, từ trong gia đình đến các nơi đình chùa ngoài làng xóm. Việc thổi xôi để cúng được trân trọng từ khi lựa gạo nếp, phải là thứ gạo mới gặt thơm ngon, xay giã sàng sẩy kỹ lưỡng, chọn các hạt tròn trĩnh không gẫy mẻ. Một số làng còn có tục lệ thi thổi xôi, thi mâm xôi cúng đẹp và ngon dẻo. Xôi còn được đóng thành các phẩm oản, hoặc giã thành bánh dầy làm lễ vật cúng Quốc Tổ nơi đình đền, cúng Phật nơi chùa chiền.
Cách làm chín xôi cũng trang trọng qua việc phải đồ trong những nồi trõ 2 tầng để hấp chín cách thủy. Còn nấu gạo nếp trong nồi chỉ được gọi là cơm nếp, giống như gạo tẻ để ăn, không dùng để cúng. Do vậy mà 'nắm xôi' không phải là món ăn tầm thường như cơm nếp, tuy cũng do gạo nếp nấu ra.
Các vị anh hùng dân tộc, hoặc những người có công lớn với dân với nước... thường được dân chúng tôn kính, lập nơi thờ phượng trang nghiêm. Mà hầu hết các vị này tại Việt Nam, thường xuất thân ở thôn quê nơi các gia đình dân dã.
Khởi đầu họ chỉ là những đứa trẻ bình thường, bị gọi là 'thằng' như Bờm. Nhưng nếu biết lập chí & lập thân, họ sẽ trở nên người có công với dân với nước, khiến ai nấy trọng vọng. Trong khi 'Phú Ông' suốt đời chỉ là kẻ giàu có tầm thường, nhiều khi phải lấy tiền mua các chức tước 'hàm' mà thôi.
Nhận định
Như vậy bài 'Thằng Bờm' có nội dung giáo dục rất cao, nhưng bấy nay chưa được phân tích ý nghiã uẩn áo, phổ biến sâu rộng, hầu có thể làm một trong những bài giảng quan trọng về nền luân lý cổ truyền của Việt Nam nơi trường học?!
Các vị anh hùng như Đinh Bộ Lĩnh, Nguyễn Huệ, Nguyễn Công Trứ... đều xuất thân là những 'thằng bé' như Bờm nơi thôn dã. Nhưng nhờ ý chí cao và tinh thần yêu nước & thương nòi mãnh liệt, họ đã dấn thân giúp nước, trở thành những vị anh hùng của dân tộc, được ai nấy tôn kính.
Tưởng cũng nên phân biệt giữa 'Dũng' và 'Hùng': Dũng chỉ là sự can đảm của bản thân, nhằm tự thắng mình như câu 'Phú qúy bất năng dâm - Bần tiện bất năng di - Uy vũ bất năng khuất'. Còn muốn trở thành Hùng, phải có thêm cả tài lẫn đức để có thể thắng mình + thắng kẻ bạo tàn một cách quang minh chính đại, giúp quốc gia dân tộc, được ai nấy ngưỡng mộ dài lâu, thờ phượng tôn kính nơi đình chung.
Chính vì thế mộng ước trở anh hùng & liệt nữ mới chính là mơ ước để giới trẻ Việt Nam hướng tới, hơn chỉ là những người học thức hay giầu có; mà chỉ lo chuyện 'vinh thân - phì gia', cao lắm cũng chỉ như các 'phú ông' mà thôi?
Phải chăng do ý nghiã nụ cười của Bờm bấy nay chưa được lý giải thỏa đáng, để giới trẻ hay biết; nên mới có hậu quả là giới học thức Việt hầu hết rơi vào tâm lý sống tầm thường, chỉ đủ can đảm vượt khó lo cho bản thân, gia đình - thay vì vượt cao lên tầm mức lo cho xã hội, quốc gia?!
***
Nhân vật phản diện của Thằng Bờm trong kho tàng văn hóa Việt Nam là Thằng Cuội, vô cùng gian dối và ác sát, giết người không từ một ai.
Nếu trong các truyện dân gian có nhiều sự tích về Cuội, thì trong đồng dao chỉ thấy có duy nhất một bài nói về tính lơ đễnh lười biếng của Cuội:
'Thằng Cuội ngồi gốc cây đa,
'Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời.
'Cha còn cắt cỏ trên trời,
'Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên.
'Ông thì cầm bút, cầm nghiên,
'Ông thì cầm tiền đi chuộc lá đa.
Tục ngữ cũng chỉ có câu:
'Nói dối như cuội...
Trong lịch sử Việt Nam có rất nhiều nhân vật Bờm và Cuội, mà điển hình gần chúng ta nhất là Tổng thống Ngô Đình Diện cũng như nhiều vị quan thanh liêm, khí phách; sẵn lòng từ bỏ quan chức nhiều bổng lộc, để giữ tư cách - nào có khác gì Bờm từ chối sự giàu sang không do mình làm ra, mong tìm công danh qua hình ảnh 'miếng xôi' phân định danh phận nơi đình chung?
Còn hình ảnh Cuội có thể thấy rõ qua Chủ tịch Hồ Chí Minh, sẵn sàng nói dối từ năm sinh đến tên họ... lừa dối không chỉ vài người như Cuội, mà lừa dối cả một dân tộc, đẩy cả nước vào chỗ chết chìm khi phải vượt biển trốn tránh - nào khác gì Cuội dìm chết từ ông thầy bói đến chú thím cả tin hắn một cách ngờ nghệch? Lời dụ dỗ của Cuội là dưới sông có nhiều tiền bạc, nào có khác gì lời hứa của họ Hồ về một đất nước 'Độc lập - Tự do - Hạnh phúc' khiến bao người sẵn sàng lao đầu vào cuộc chiến tương tàn, chết bi thảm?!
Hình ảnh đích thực của Bờm và Cuội bấy nay vẫn chưa được đưa vào môi trường giáo dục, quả là một điều vô cùng đáng tiếc. Vì qua hai nhân vật Thiện và Ác này, có thể gợi ra nhiều so sánh - diễn dịch - quy nạp khác nhau, tạo được các tác dụng luân lý rất cao xa vào tâm thức trẻ con lẫn người lớn.
Một điều đáng lưu tâm là trong khi có rất nhiều câu chuyện kể về những việc nói dối gian ác cực kỳ của Cuội, thì về Bờm chỉ có một bài ca dao duy nhất với nội dung thâm trầm khó hiểu?
Nguy hại nhất Cuội là đứa trẻ gian dối cùng hung cực ác, bị dân gian cô lập trên cung Trăng, nhằm ngăn ngừa sự dối trá sảo quyệt quá nguy hiểm của hắn, đã không được giải thích cho trẻ hiểu, lại còn bị một số nhạc sĩ, thi sĩ ca ngợi tạo thành hình ảnh 'Chú Cuội' dễ thương???!!!
Phải chăng đây là chủ trương giáo dục 'Không xấu cũng đủ tốt', nên mới nói về chuyện xấu rất nhiều cho mọi người thấy mà tránh, ít nói về chuyện tốt. Vì tránh điều xấu thì dễ và ít bị mâu thuẫn như khi nói về điều tốt.
Quan niệm này còn được thể hiện rõ nét trong truyện 'Tấm - Cám', khi cả hai nhân vật chính tà đều thể hiện sự trả thù rất tàn nhẫn, khiến nhiều người không hiểu, cho rằng Người Việt xưa rất ác - mà thực tế chỉ là chủ trương phải nêu cái ác làm sao cho người ta thấy mà sợ, như hình ảnh vạc dầu, đi cầu vồng... ở cõi âm trừng phạt kẻ xấu, nơi một số tôn giáo?
Việc cô Tấm là nhân vật chính diện mà cũng trả thù như nhân vật phản diện là cô Cám, thể hiện quan niệm 'Trong Xấu - có Tốt' cũng như 'Trong Tốt có Xấu'; mà phải đến cuối Thế kỷ XX, mới được nhà văn Kim Dung của Trung Quốc khắc họa phổ biến qua các nhân vật trong tiểu thuyết võ hiệp của ông, được Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy viết thành sách phân tích một số nhân vật của Kim Dung mang hình ảnh của một số lãnh tụ Cộng sản cùng hung cực ác như Lénine, Staline, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh...
Nhờ Kim Dung và một số tác giả viết truyện võ hiệp cùng thời, mà người Trung Quốc nay không còn phân biệt mọi người thành 2 loại Quân tử - Tiểu nhân như thời Khổng Tử, mà phân biệt thành 4 loại:
'Quân tử trung chi Quân tử.
'Tiểu nhân trung chi Quân tử.
'Quân tử trung chi Tiểu nhân.
'Tiểu nhân trung chi Tiểu nhân.
Với cách phân loại như trên, chúng ta thấy chỉ có Phật Thích Ca và Chúa Jesus Christ mới xứng đáng là bậc 'Quân tử trung chi Quân tử' mà thôi?
Và như thế chúng ta mới có thể thông cảm với ý Lan Phu Nhân đời nhà Lý, qua hình ảnh cô Tấm, khi người Việt không hề muốn theo lối phân biệt Thiện - Ác một chiều theo các quan niệm của các tôn giáo trên thế giới, mà chủ trương một cách thực tế hơn, khi cho rằng 'trong Thiện có Ác - trong Ác có Thiện'; cũng như 'trong Phúc có Hoạ - trong Họa có Phúc' hầu có thể giảm bớt sự sùng bái cũng như miệt thị cá nhân một cách quá đáng, để rồi gặp phải sự hụt hẫng khổ đau như đối với Hồ Chí Minh...
Trong các thần tượng về Tôn giáo - Chính trị - Lịch sử... có không ít kẻ bị coi là 'đạo đức giả' hoặc 'ngụy quân tử'... cho thấy điều tốt chưa hẳn là tốt, mà còn có thể bị lợi dụng & lạm dụng che đậy những âm mưu xấu... như kiểu Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản?
Do vậy mà giới học thức soạn sử sách bấy nay đã không tìm hiểu nghiên cứu sâu xa ý nghiã về 'Tốt - Xấu' trong ca dao, tục ngữ, cổ tích; hầu hết chỉ dừng lại ở việc sưu tầm thông thường mà thôi, rơi vào chỗ làm mất đi những tinh hoa của tư tưởng Việt Nam, khiến nhiều người bấy nay kém hiểu biết, coi thường nền văn hóa cổ truyền của dân tộc!
Ngôn ngữ chính là sự sống còn rất sinh tử của mỗi quốc gia dân tộc, đến độ trải mấy ngàn năm qua, nhân loại đã có sự phân biệt giữa Sinh Ngữ và Tử Ngữ.
Nổi bật nhất trên thế giới hiện nay, tiếng Anh được coi là Sinh Ngữ chính của cả nhân loại, khi người có học nước nào cũng cần phải học Anh ngữ, mới có thể giao thiệp, giao thương, giao thông, giao lưu, ngoại giao, nghiên cứu sách vở phát triển kiến thức đủ loại.
Tiếng Anh sở dĩ phát triển mạnh mẽ, là nhờ cách nói, viết, cách dùng chữ, đặt câu... đơn giản hơn so với các loại chữ của các nước khác. Nhờ vậy mà đi tới đâu, tiếng Anh có thể đồng hóa một số tiếng địa phương, cũng như bản địa hóa một số chữ để thâm nhập, nên ít gây ra kỳ thị cách biệt.
Phải chăng nhờ ngôn ngữ mà Anh, Mỹ đã trở nên thịnh trị, tạo được nhiều ảnh hưởng trên thế giới về nhiều phương diện khác nhau, khiến nhân loại phải coi trọng?
Tiếng Việt của Người Việt có được một sự phát triển vững mạnh bấy nay, cũng là nhờ sức đồng hóa và biến hóa rất nhanh và mạnh. Như về Hình thức từng đồng hóa chữ Hán thành chữ Nôm, rồi đồng hóa chữ Latin thành chữ Quốc ngữ - Về Nội dung đã Việt hóa ý nghiã của nhiều chữ Tàu, chữ Pháp, chữ Anh... để phong phú hóa ngôn ngữ của mình, mà vẫn không làm mất đi bản sắc của ngôn ngữ dân tộc.
Như vậy có thể nói ngôn ngữ Việt Nam là một thứ ngôn ngữ mạnh, nên mới có thể biến hóa & bản địa hóa nhiều giá trị ngôn ngữ ngoại lai thành của mình. Điều này hơn hẳn Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga, Ấn Độ và các xứ Hồi Giáo... cho đến nay vẫn phải dùng các loại mẫu tự khó đọc khó viết hơn mẫu tự Latin được Âu Mỹ cải biến, rồi được Việt Nam thăng hoa lên một bậc cao hơn, khi thêm 5 dấu sắc - huyền - hỏi - ngã - nặng, để có thể ghi âm đủ mọi thanh bằng trắc khác nhau của các thứ ngôn ngữ trên thế giới, hơn hẳn kiểu phiên âm quốc tế bằng các loại dấu phức tạp của Âu Mỹ hiện nay?
Có trong tay một khí cụ ngôn ngữ truyền đạt tinh hoa, Người Việt còn sáng tạo ra một nghệ thuật truyền bá giáo dục cũng tinh hoa không kém, khi dùng âm thanh trầm bổng gợi cảm và hình ảnh gợi tình để đưa vào ngũ quan người học những kiến thức căn bản, ngay từ cách diễn tả bằng những chữ kép, như 'chanh chua', 'mật ngọt', 'ớt cay', 'hoa thơm', 'sấm nổ', 'suối róc rách'...
Từ tấm bé, đứa trẻ Việt Nam đã có thể đọc + biết + nhớ cả một bài văn làm theo thể vè mỗi câu 4 chữ, dài ngắn không bó buộc. Nhờ lối đặt câu ngắn gọn, vần điệu dễ nhớ, hình ảnh dễ thương... liệt kê các loại cây cối, hoa quả, bánh trái, chim chóc, thú vật, vật dụng... kèm chi tiết cơ bản nhất, nên bài tuy dài vẫn dễ nhớ - dễ truyền bá với cả trẻ con lẫn người lớn.
Lối Vè 4 chữ của Việt Nam, đã có trước sách Tam Tự Kinh mỗi câu 3 chữ của Trung Quốc rất lâu, thể hiện đặc tính chẵn chòi của sự tròn trịa, du dương mềm mại?
Vè các loại rau
Trong đời sống người Việt, rau là loại cây nhỏ nhoi dễ trồng dễ mọc như cỏ, nhưng lại rất thân thiết và cần thiết, vì là món ăn hàng ngày không thể thiếu:
'Cơm không rau, như đau không thuốc'.
Rau thực chất là một món ăn chính, chứ không hề là món ăn độn như ngày nay nhiều người nghĩ. Vì rau được người Việt chọn trồng để ăn, ngoài bổ dưỡng chất tươi... thường còn có nhiều dược tính, giúp hóa giải độc chất vì thịt cá hư nhanh do khí hậu nhiệt đới nóng nực gây ra; còn giúp tăng thêm sự tiêu hóa, chưa kể giúp các món ăn có những mùi vị thơm ngon riêng. Như rau Răm ăn với trứng vịt lộn, nấu canh thịt bò... chẳng những giúp dễ tiêu, mà còn thơm ngon một cách rất đặc biệt...
Ba thứ lá và củ không thể thiếu khi ăn với ba loại thịt, đã được ca dao truyền tụng:
'Con gà cục tác lá chanh,
'Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi.
'Con chó khóc đứng khói ngồi,
'Mẹ ơi! Đi chợ mua tôi đồng riềng.
Thế nên đứa trẻ miền quê nào cũng yêu thích trồng rau, hái rau... am hiểu về rau, vì được chỉ dẫn một số đặc điểm về tên gọi, tính chất, hoặc hình dạng... qua các bài vè, đồng dao... như một bài cách trí nhẹ nhàng:
'Nghe vẻ nghe ve
'Nghe vè các rau
'Thứ tên hỗn hào
'Là rau Ngành Ngạnh
'Bò dọc bò ngang
'Là rau Muống Xanh
'Ăn thấy mùi tanh
'Là rau Dấp Cá
'Không bà có má
'Rau Má mọc bờ
'Cầm tay bị dơ
'Nó là rau Nhút
'Ăn cay như ớt
'Vốn thiệt rau Răm
'Sống trước ngàn năm
'Là rau Vạn Thọ
'Mùi vị thơm tho
'Là các rau húng
...
Vè các loại hoa
Hoa đối với người Việt, không chỉ để cúng trên ban thờ, bày cho đẹp trong các dịp lễ, trang trí báo hiệu bốn mùa... mà còn được dùng làm đẹp đời sống tinh thần, qua những ví von so sánh... để bày tỏ tình cảm một cách thăng hoa. Tên các loại hoa cũng mang các ý nghiã về tính chất, hình dạng khác nhau:
'Nghe vẻ nghe ve
'Nghe vè các hoa
'Tháng ba nắng nóng
'Nước biển mặn mòi
'Vác mai đi xoi
'Là bông hoa Giếng
'Hay bay hay liệng
'Là hoa Chim Chim
'Xuống nước mà chìm
'Là hoa Bông Đá
'Bầu bạn cùng cá
'Là đá San Hô
'Hỏi Hán qua Hồ
'Là hoa Bông Sứ
'Gìn lòng kiêng cữ
'Là hoa Từ Bi
'Ăn ở theo thì
'Là hoa Bần Ngọt
'Thương ai đau xót
'Là hoa Sầu Đâu
'Có sông không cầu
'Là hoa Nàng Cách (cách trở)
'Đi mà đụng vách,
'Là hoa Mù U
'Cạo đầu đi tu
'Là hoa Bông Bụt
'Mùi thơm nghi ngút
'Là hoa Hắc Hương
'Nước chảy dầm đường
'Là hoa Mần Tưới
'Rủ nhau đi cưới
'Là hoa Bông Dâu (cô dâu)
'Nước chảy rạch sâu
'Là hoa Muống Biển
'Rủ nhau đi kiện
'Là hoa Mít Nài (nài nỉ)
'Gái mà theo trai
'Là hoa Phát Nhũ (cái vú)
'Đêm nằm không ngủ
'Là hoa Nở Ngày
'Bán chẳng lìa cây
'Là hoa Bông Cúc
'Nhập giang tùy khúc
'Là hoa Bông Chìu (chiều theo)
'Ở không lo nghèo
'Là hoa Đu Đủ
'Đi theo vua chúa
'Là hoa Mần Quân (làm lính)
'Đêm rằm sáng tỏa
'Là bông hoa Trăng
'Không nói không rằng
'Là hoa Ngủ Điếc
'Xanh xanh biêng biếc
'Đánh bạc cố quần
'Là bông hoa Ngỗ (ngỗ nghịch)
'Ngồi mà choán chỗ
'Là hoa Dành Dành (giành giật)
'Không thích đua tranh
'Là hoa bông Ngãi (nhân nghiã)
'Bắt đi nhốt lại
'Là hoa Phù Dung (thuốc phiện)
'Góc chợ đầu đường
'Là bông hoa Thị (thị là chợ)
'Không già không trẻ
'Là hoa Bạc đầu
'Thiên hạ phải cầu
'Là bông hoa Lúa
'Hay làm hay múa
'Là hoa Vòng Xay
'Giúp đỡ cho vay
'Là hoa Cam Thảo
Là bông hoa Chàm
'Đụng chút dỗi hờn
'Là hoa Mắc Cở
'Vui chơi thong thả
'Là bông hoa Chè
'Ăn nói lè nhè
'Là hoa Chừm Rượu
'Rủ nhau bổ củi
'Là hoa Đầu Rìu
'Lo sớm lo chiều
'Là hoa Bông Cái (tức mẹ)
'Rủ nhau làm vải
'Là cái hoa Bông
'Dưới nước mọc vươn
'Là bông Hoa Súng
Tới quán ngồi không
'Là hoa Bông Chén
'Trong đầm mọc chen
'Là bông Hoa Sen
...
Nam nữ mượn các loài hoa để giãi bày tình cảm:
-'Em hỏi anh các loài hoa,
'Anh ưa hoa nào, xin nói em hay.
-'Em hỏi thì anh xin thưa,
'Hoa trăm thứ, biết em ưa hoa nào?
'Hoa Gạo đỏ thắm trên cao,
'Lảo đà lảo đảo rụng nhào cỏ may.
'Hoa Lựu màu đỏ hây hây,
'Hoa Ngâu lấm tấm, Bèo Tây bềnh bồng,
'Mẫu Đơn trăm cánh trổ bông,
'Hoa Lan đơn lẻ, buồn không hỡi nàng?
'Hoa Cứt Lợn mọc đất hoang.
'Chớ chê ta khó, lấy lầm kẻ ngu.
'Hoa Quỳnh nở giữa đêm thu,
'Muôn màu Thược Dược ỡm ờ đưa duyên.
'Má em như thể hoa Sen,
'Ngón tay hoa Huệ, miệng em hoa Hồng.
'Anh yêu nhất đóa hoa Hồng,
'Hái về anh ấp hai lòng bàn tay.
'Ước gì gió chỉ hây hây,
'Để cho hoa đấy lòng đây thơm cùng.
'Hoa Phượng đỏ não, đỏ nùng,
'Ve kêu ra rả bạn cùng những ai?
'Lẳng lơ thơm nức hoa Nhài,
'Chính chuyên có chị hoa Mai gầy mòn.
'Hoa Chuối trộn nộm thật ngon,
'Hoa Đu Đủ đực anh chàng trêu ngươi.
'Hoa Thiên Lý ngát thơm đời,
'Nấu canh thanh khiết, ngọt bùi có nhau.
'Gió trăng là cô hoa Cau,
'Hoa Sói thơm thoảng, hoa Bầu ngẩn ngơ,
'Hoa Rau Muống nghèo xác xơ,
'Hoa Mò độc địa chẳng chừa một ai.
'Hoa Dâm Bụt mới nực cười,
'Dâm mà thành Bụt hổ ngươi chăng là?
'Hoa Ti Gôn, Tây mang qua,
'Hoa Mõm Chó, hoa Ruột Gà lạ thay?
'Hoa Xoan như thể đám mây,
'Sụt sùi nhớ bạn, mưa ngày mưa đêm.
'Bìm Bìm luồn lách vườn em,
'Anh theo con bướm tìm xem mặt nàng.
'Hoa Cúc vàng thật là vàng,
'Còn như hoa Mướp rộn ràng với ong.
'Mào Gà đích thực đàn ông,
'Ngọc Lan kín đáo mơ mòng đáng yêu.
'Hoa Lạc nghiêng ngả lao xao,
'Còn riêng hoa Súng dưới ao im lìm.
'Dạ Lý Hương thật đa tình,
'Hương bay muôn nẻo, náu mình một nơi.
'Hoa Ngô phơi phới góc trời,
'Hoa Lau có cả một thời liệt oanh.
'Trăm hoa anh kể đã rành,
'Nhưng hoa đẹp nhất với anh là nàng.
'Hoa Người đẹp nhất nhân gian,
'Chẳng gì có thể sánh bằng, em ơi!
Vè các trái cây
Người Việt ưa trồng nhiều loại cây ăn trái ngay trong vườn nhà, hầu mùa nào thức nấy lấy trái trước là cúng tổ tiên, sau là ăn có thêm chất đường. Với trẻ con nơi thôn quê, trèo cây hái trái chính là một thú vui leo trèo đánh đu nhởn nhơ, tập luyện gân cốt giữa thiên nhiên hàng ngày, nên chúng chẳng những hiểu rõ từng cây mà còn biết cây nào trái ngon, nơi nào có quả sắp chín:
'Nghe vẻ nghe ve
'Nghe vè trái cây
'Dây ở trên mây
'Là trái Đậu Rồng
'Có vợ có chồng
'Là trái Đu Đủ
'Chặt ra nhiều nhựa
'Là trái Mít Ướt
'Đầu tựa gà xước
'Vốn là trái Thơm
'Cái đầu chơm bơm
'Là trái Bắp nấu
'Rủ nhau làm xấu
'Là trái Dái Dê
'Ngứa gãi tái tê
'Là trái Mắt Mèo
'Khoanh tay lo nghèo
'Là trái Bần ổi (bần là nghèo)
'Sông sâu chẳng lội
'Là trái Mãng Cầu (cầu qua sông)
'Chẳng thấy nàng đâu
'Ấy là trái Cách (xa cách)
'Trong ruột óc ách
'Là trái Dừa Xiêm
'Chín mà thâm kim
'Chuối Già, Chuối Sứ
'Túm ba tụm bốn
'Là lũ Dưa Gang
'Vốn ở xứ Miên
'Là trái Bí Rợ
'Chẳng nên lễ cúng
'Đó là trái Sung
'Nhỏ mà cay hung
'Là trái Ớt Hiểm
'Lủng la lủng liểng
'Chính là trái Me
'Nắng chẳng cần che
'Là trái Rau Mát
'Tha hồ chà xát
'Vốn là trái Chanh
'Nhỏ mà làm anh
'Trái Điều Lộn Hột
'Ăn mà chẳng lột
'Chỉ là trái Tiêu
'Thổi nghe cô liêu
'Là trái Cóc Kèn
'Rủ nhau đi rèn
'Là trái Đậu Rựa (rèn dao rựa)
'Đua nhau chọn lựa
'Là trái Dành Dành
Với người lớn, kiến thức về trái cây được chỉ dẫn theo lối tình tự, mượn các đặc tính của cây trái bày tỏ ý tình:
'Có hoa, có quả mới hay,
'Một trăm thứ quả em nay đã từng:
'Cứng thì quả Ổi còn ương,
'Mềm thì quả Thị chín vàng đã lâu.
'Đỏ lòng thì đúng quả Nâu,
Nhuộm khăn, nhuộm áo, đẹp màu đôi ta.
'Thơm thơm, mát mát quả Na,
'Biếu cha, biếu mẹ, hơn là chén son.
'Đắng thì Bồ Kết, Bồ Hòn,
'Để ta tắm gội cho trơn mái đầu.
'Ngọt thì Long Nhãn, Táo Tàu,
'Bưởi Đường, Cam, Qúit, Lựu, Đào ngon thay.
'Chua thì quả Hạnh, quả Mai,
'Quả Sấu, quả Rọc, quả Gai trái mùa.
'Đôi ta còn ngọt, chưa chua,
'Đừng tham Táo rụng, đừng mua Khế rừng.
'Thanh Yên, Phật Thủ thơm lừng,
'Quả ngon mặc quả, xin đừng quên nhau.
'Bé thì quả Vối, quả Dâu,
'Lớn thì quả Mít chia nhau để dành.
'Đôi ta chọn cá nấu canh,
'Cà Chua chín đỏ rắp ranh đi tìm.
'Trên rừng quả Mái, quả Sim,
'Tham thanh, chuộng lạ chớ hiềm của quê.
'Yêu nhau vạn sự chẳng nề,
'Có như quả Vả cũng chia nhau cùng.
'Thân em như thể quả Hồng,
'Anh như quả Trám theo dòng nước mây.
'Tình cờ ta gặp nhau đây,
'Quả Cau ta bổ trao tay mời chào.
'Đôi ta kết nghiã tương giao,
'Tình như quả Mận, quả Đào đong đưa.
'Bùi như quả Ấu, quả Dừa,
'Xanh như quả Mướp, quả Dưa, quả Bầu.
'Hạt Tiêu cay đắng dãi dầu,
'Còn Ớt cay đắng ra màu xót xa.
'Mật kia hòa với nước hoa,
'Đừng đem Mướp Đắng mà hòa mạt cưa.
'Thủy chung cho bác mẹ ưa,
'Đừng như Đu Đủ nắng mưa dãi dầu.
'Yêu nhau đá bắc nên cầu,
'Bồ Quân khi chín ra màu đỏ tươi.
'Hẹn chàng cho đủ mười mươi,
'Thì chàng kết tóc ở đời với em.
Vè các loài chim
Cây cành, hoa quả tốt tươi đã khiến loài chim có nhiều thức ăn, chỗ làm tổ, sinh sôi nảy nở nhiều thành bầy đàn, vui hót líu lo sáng chiều, làm cho cảnh vật nông thôn càng thêm rộn rã tưng bừng.
Với lũ trẻ thì loài chim là những sinh vật đẹp đáng mê say nhất, khiến chúng mải mê nhìn ngắm, thể hiện các ước mơ bay bổng.
Thuần dưỡng được một con chim sáo hay một con chim sẻ trong đời, là một sự hãnh diện và niềm vui lớn, hơn hẳn sở hữu một con chó hay con mèo sẵn có dễ dàng trong nhà.
'Nghe vẻ nghe ve
'Nghe vè chim chóc
'Hay moi hay móc
'Đó là con Giơi
'Thấy nắng đứng phơi
'Là con Diệc mốc
'Lần theo mấy gốc
'Là chim Thuyền Chài
'Lông đuôi dài dài
'Là con chim Phướn
'Rành thông bốn hướng
'Là chim Bồ Câu
'Biết lặn thật sâu
'Là chim Cồng Cộc
'Ăn táp hùng hục
'Là con chim Heo
'Hay đậu cheo leo
'Là chim Chèo Bẻo
'Đầu cọc vắt vẻo
'Là chim Thầy Bói
'Đêm ngày khắc khoải
'Là chim Đỗ Quyên
'Ríu rít bay chuyền
'Là lũ Vành Khuyên
'Vừa đứng vừa biên
'Là chim Học Trò
'Rủ nhau lò mò
'Là con chim Ốc
'Gõ mõ lốc cốc
'Là chim Thầy Chùa
'Tụng kinh bốn mùa
'Là chim Bìm Bịp
'Chạy theo không kịp
'Là chim Hít Cô
'Đầu trọc lông lốc
'Là chim Bình Vôi
'Ngủ đứng ngủ ngồi
'Là con cò trắng
'Hay bay hay tắm
'Là con Le Le
'To như cái bè
'Là con Ông Lão
Vè các loài cá
Việt Nam là quốc gia có nhiều bờ biển, sông hồ, kênh rạch, ao đầm... nên cá là loài có nhiều và gần gũi với mọi người, nhất là với trẻ em. Đứa trẻ nào ở đồng quê cũng từng câu cá, bắt cá, nuôi cá, gần gũi ngắm nghiá những con cá lành dữ, từ màu trắng như bạc, đen như than, vàng như nghệ, đỏ như son... Mê mẩn không gì cho bằng là những con cá đá, đuôi cờ đủ màu xanh tím đỏ, hễ thấy nhau là dương vây khiêu chiến rồi đánh nhau dữ dội. Tên mỗi con cá được cao dao giải thích một cách thi vị lý thú.
Nhưng thú vị nhất vẫn là những buổi trưa hè, khi mặt trời đứng bóng, gió im, mây trôi lững lờ. Đó chính là lúc những chú cá lớn nhỏ 'đứng soi bóng' dưới cọng bèo hay lá cây rong nước, tha hồ cho những đứa trẻ thẩn thơ tìm kiếm ngắm nhìn không chán mắt:
'Ve vẻ vè ve
'Bắt vè con cá
'No lòng phỉ dạ
'Là con cá Cơm
'Không ướp mà thơm
'Là con cá Ngát (thơm ngát)
'Liệng bay san sát
'Là con cá Chim
'Hụt cẳng chết chìm
'Là con cá Đuối (chết đuối)
'Lớn năm nhiều tuổi
'Là cá Bạc Đầu
'Đủ chữ, xứng câu
'Là con cá Đối (câu đối)
'Nở mai, tàn tối
'Là cá Vá Hoa
'Trắng muốt, béo da
'Là cá Úc Thịt
'Dài lưng hẹp kích
'Là cá Lòng Tong
'Ốm yếu hình dong
'Là con cá Nhái
'Thiệt như lời vái
'Là con cá Linh (linh thiêng)
'Được người tôn kính
'Là cá Ông Voi
'Ai nấy ngắm coi
'Là con cá Cờ
'Viết chữ làm thơ
'Là con cá Mực
'Cá mà không đực
'Là con cá Mái
'Nấu ra đỏ chẹt
'Là con cá Khoai
'Đi ăn trộm hoài'
'Là con cá Nhám (nhám tay)
'Được người ưa chuộng
'Là cá Trầu Ổ
'Ăn nói hàm hồ
'Là con cá Sứ
'Hay gặp mặt nhau
'Là con cá Ngộ
'Làm ruộng cực khổ
'Là con cá Cầy
'Chẳng dám múc đầy
'Là con cá Thiểu
'Nói không chịu hiểu
'Là con cá Ngạnh (ương ngạnh)
'Đi đường phải tránh
'Là con cá Mương
'Mập béo ít xương
'Là con cá Nục
'Gặp nhiều diễm phúc
'Là con cá Hanh
'Làm hại cha anh
'Là con cá giếc (bị mắng nhiếc)
'Suốt ngày nói miết
'Là con cá Gáy
'Vừa trốn vừa chạy
'Là con cá Chuồn
'Lo viết lách luôn
'Là con cá Chép
Vè các thứ bánh
Nơi đây, chúng ta có thể thấy tài năng biến hóa của các Tiên Việt.
Bấy nay chúng ta thường biết về các Bà Tiên Tây phương có khả năng biến hóa các vật tầm thường thành những thứ cao sang. Như trong cổ tích Cô Bé Lọ Lem, Bà Tiên biến con chuột thành con ngựa, cái bắp cải thành cỗ xe sang trọng... Trong một số cổ tích khác, các Bà Tiên có thể tạo ra những cỗ bàn bánh kẹo cao sang.
Vậy Tiên Việt ra sao?
Nếu các Bà Tiên Đông Tây có 'khả năng' biến hóa mang tính chất hão huyền, thì các 'Tiên Việt' lại có 'tài năng' biến hóa thật sự trong cuộc sống.
Nàng Giáng Tiên trong cổ tích Bích Câu Kỳ Ngộ, Cô Tấm trong cổ tích Tấm Cám đều thể hiện khả năng bếp núc, khi từ trong tranh hay từ trong quả thị bước ra là vào bếp nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ khang trang.
Vậy Tiên Việt vào bếp làm được những gì?
Nhìn vào kho tàng thức ăn Việt Nam, chúng ta thấy không chỉ có những món ăn phong phú thơm ngon trên mâm cơm hàng ngày, mà còn là hàng trăm thứ quà bánh, như hàng chục loại bún, loại xôi, hàng trăm thứ bánh khác hẳn nhau... chứng tỏ Tiên Việt - cụ thể là những người Mẹ, người Chị ngay trong gia đình - đã có khả năng thần kỳ hơn ai hết, khi có thể từ hạt gạo nếp gạo tẻ rất nhỏ bé tầm thường, chế biến thành không biết bao nhiêu món ăn ngon lành khác nhau, một cách thực sự, không hão huyền viển vông.
Còn việc biến hóa về nơi ăn chốn ở, thì cũng có thể thấy rõ trong thời buổi hiện đại, khi có chương trình Đoàn tụ ODP cho người Tỵ nạn cuối Thế kỷ XX, ở Mỹ, Canada, Úc... chỉ lúc xuất hiện các bà vợ, mới thấy mọc lên như nấm những khu 'Viet Nam Town' phồn vinh, đâu có thua gì các lâu đài của các Bà Tiên Đông Tây?
Nghệ thuật làm bánh của người Việt, có đặc điểm nổi bật là tài pha chế biến hóa một thứ bột ra nhiều thứ bánh khác hẳn nhau, như theo các loại nhân ngọt hay nhân mặn, nhân chay hay nhân thịt... lại còn theo cách nấu chín khác nhau như chiên, luộc, hấp... cách gói bằng lá hay để trần... cũng thành khác hẳn nhau.
Chỉ cần một thứ gạo nếp, mà người Việt cũng có thể sáng chế ra vài chục thứ xôi khác hẳn nhau, huống chi khi thứ gạo này giã thành bột, biến hóa không sao xiết kể.
Bánh đối với trẻ con Việt Nam là thứ có thể ăn no không chán, là niềm thích thú vô bờ mỗi ngày. Bánh của người Việt nhiều thứ đến độ, có nhiều người sống hết đời cũng chưa chắc đã được thưởng thức hết các loại bánh, vì ngay trong nước mà bánh 3 miền Bắc - Nam - Trung cũng có nhiều thứ làm khác hẳn nhau, không chỉ về hình dáng và tên gọi của bánh. Như bánh Bèo miền Bắc khác hẳn bánh Bèo của miền Trung và Nam, cả về hình dạng lẫn chất bánh...
Do vậy mà Vè Các Thứ Bánh có những thứ bánh mà chúng ta chưa từng biết:
'Nghe vẻ nghe ve
'Vè các thứ bánh
'Tròn như mặt trăng
'Đó là bánh Xèo
'Có cưới, có cheo
'Đó là bánh Hỏi
'Đi mà không giỏi
'Thì có bánh Bò
'Ăn không đủ no
'Nó là bánh Ít
'Giống nhau như hệt
'Ấy là bánh In
'Mắc cở không nhìn
'Là bánh Khổ Qua
'Nấu nếp căng ra
'Là bánh Xôi Nước
'Biết đi, biết bước
'Đó là bánh Chưng (chưn: chân)
'Có núm trên lưng
'Là bánh Nhũ Đệ (nhũ: vú)
'Mật đường mà chế
'Là bánh Đa Trời
'Để đĩa trắng ngời
'Là bánh Bột Lọc
'Ăn mà cay gắt
'Chỉ có bánh Gừng
'Lạt cột trên lưng
'Là cái bánh Tét
'Tròn như quả quít
'Là cái bánh Bao
'Lóng lánh như sao
'Là bánh Bột Báng
'Mật quệt vàng óng
'Là cái bánh Cam
'Ăn ở chơm bơm
'Là chiếc bánh Ổ
'Tròn nhưng lỗ chỗ
'Là cái bánh Căng
'Trên mình có rằn
'Là bánh Da Lợn
'Trông thấy lợn cợn
'Đó là Chè Khoai
'Ăn vào ngứa hoài
'Đúng là bánh Dứa
'Lấy trai có chửa
'Là cái bánh Bầu
'Xe nhợ mà câu
'Thiệt là bánh Chỉ
'Muốn ăn cho kỹ
'Thì ních Tàu Thưng
'Thiên hạ chẳng ưng
'Là cái bánh Còng
'Xe nhợ lòng vòng
'Đó là bánh Nghệ
'Giã ra mà chế
'Thiệt là Xua Xoa
'Tưởng nhớ ông bà
'Thì là bánh Cúng
'Hấp ra có núm
'Là bánh Ít Trần
'Phơi để ngoài sân
'Là liếp bánh Tráng
'Hai mùa sáu tháng
'Là bánh Trung Thu
Một bài vè khác về bánh mới làm sau này, nên có thêm mấy thứ bánh Tây phương với ý tưởng kèm theo mang ý giáo dục, khá ngộ nghĩnh::
-'Nghe vẻ nghe ve
'Nghe vè cái bánh
'Không hề sợ lạnh
'Là bánh Ít Trần
'Ăn khỏe tinh thần
'Huế kêu bánh Khoái
'Cúi đầu chịu dại
'Là phận bánh Cam
'Bánh người Tàu làm
'Là Dầu Cháo Quẩy
'Nhai e răng gẫy
'Là bánh Tai Heo
'Lười tập mất eo
'Kêu là bánh Ú
'Tham ô vài cú
'Lãnh cái bánh Còng
'Không sợ té sông
'Là cái bánh Ướt
'Nhậu đi hết được
'Gọi chú bánh Bò
'Rủi bị chìm đò
'Nhớ đeo bánh lái
'Bánh Quy vái lạy
'Bánh cúng nhà nghèo
'Bánh giống bì heo
'Kêu bánh Da Lợn
'Đẻ nhiều khổ lớn
'Đặt cái bánh vòng
'Đậu mỡ chung cùng
'Bánh Chưng bánh Tét
''Bánh Tây cọt quẹt
'Bít cốt ba tê
'Còn bánh Su Sê (phu thê)
'Dùng cho cưới hỏi
'Chạy nhảy bị lọi
'Là cái bánh chè
'Quanh quẩn viả hè
'Gặp bánh Bột Lọc
'Để đâm để thọc
'Là cái bánh Gai
'Chưa nếm đã cay
'Là cái bánh Quế
'Không trôi ra bể
'Là cái bánh Bèo
'Ăn kiểu nhà nghèo
'Là cái bánh Sắn
'Chơi dễ quẹo cẳng
'Là bánh Sâm Banh (Champagne)
'Những kẻ háo danh
'Thường ăn bánh vẽ
'Muốn làm thật dễ
'Có cái bánh Tôm
'Muốn ăn thay cơm
'Bánh Bao, bánh Cuốn
'Ăn mà không uống
'Chớ rớ bánh Mì
'Khoái món chân quê
'Thì ăn bánh Cốm
'Có hàm răng dổm
'Ăn bánh Bông Lan
'Rẻ nhất trong làng
'Đấy là bánh Đúc
'Ngọt miệng một chút
'Bánh Chuối nhà quê
'Bán ế ê hề
'Trung thu bánh Dẻo
'Thứ ăn nhạt nhẽo
'Bánh Biá tàn ong
'Dễ bị răng long
'Bánh Phồng nhai sống
'Nhai giòn trong họng
'Bánh Tráng, bánh Đa
'Lớn hơn ông cha
'Gọi là bánh Tổ
'Muốn không thua lỗ
'Đừng ăn bánh Tiêu
'Muốn có vợ yêu
'Nhờ cái bánh Hỏi
'Giống hết chỗ nói
'Là cái bánh In
'Giữ kho bom đạn
'Rán ăn bánh Canh
'Bột mỡ nghệ hành
'Bánh Xèo, bánh Khọt
'Nhậu xỉn cà chọt
'Lãnh cái bánh xe
'Nghe vẻ nghe ve
'Hết vè cái bánh.
Vè nước
Lãnh thổ Việt Nam hình chữ S, từ bắc xuống nam không chỉ có bờ biển, mà còn có nhiều sông ngòi, hồ ao, kênh rạch... nên đời sống người dân luôn gần gũi với nước, qúy trọng nước, nhắc nhở cho lũ trẻ hiểu về nước:
'Tôi ở trên trời
'Tôi rơi xuống đất
'Tưởng rằng tôi mất
'Chẳng hóa tôi không
'Tôi chảy ra sông
'Nuôi loài tôm cá
'Qua các làng xã
'Theo máng, theo mương
'Cho người trồng trọt
'Thóc vàng chật cót
'Cơm trắng đầy nồi
'Nên chớ khinh tôi
Hạt Mưa, hạt Móc
Vè dụng cụ
Một số thức ăn, dụng cụ, vật dụng thông dụng trong đời sống hàng ngày, cũng được đặt thành vè để giúp trẻ con am hiểu:
'Trời mưa lâm râm
'Cây Trâm có trái
'Con gái có duyên
'Đồng tiền có lỗ
'Bánh Ổ thì ngon
'Tôm càng thì béo
'Cái Kéo cắt may
'Cái Cày làm ruộng
'Cái Xuổng đắp bờ
'Cái Lờ bắt cá
'Cái Ná bắn chim
'Cái Kim may áo
'Cái Giáo đi săn
'Cái Khăn bịt đầu
'Cái Gầu tát nước
'Cái Thước để đo
'Cái Mo làm quạt
'Cái Lạt bó mạ
'Rơm Rạ thay tranh
'Phải học, phải hành
'Để mà chóng biết.
Một vài thứ còn được mô tả riêng khá cặn kẽ, thú vị, gợi ra những hình ảnh giàu tưởng tượng, ý tình chan chứa, giúp tâm hồn thăng hoa bay bổng, thể hiện khả năng diễn tả rất cao, có thể bình giảng như một bài thơ... thí dụ bài vè tả cái Diều từ dưới nhìn lên, từ trên nhìn xuống, với kết luận rất tình tứ:
'Xương tre mình giấy
'Sợi chỉ buộc chằng
'Ngày gió đêm trăng
'Bay lên bổng tít
'Trên cao mờ mịt
'Dưới ruộng mênh mang
'Sông trắng, đất vàng
'Rừng xanh, núi đỏ
'Trông vời đây đó
'Xiết mấy tỏ tường
'Nếu chẳng tơ vương
'Mắt còn rộng nữa.
Tuyệt vời nhất là bài sau đây về Mặt Trăng, có hình ảnh và âm thanh gợi nhiều tình ý, nên đã được phổ thành một bản nhạc được trẻ em ưa thích, phổ biến sâu rộng tại Miền Nam Việt Nam trước 1975:
-'Ông trẳng, ông trăng,
'Xuống chơi ông Chính,
'Ông Chính cho mõ.
'Xuống chơi nồi trõ,
'Nồi trõ cho vung.
'Đến chơi cây sung,
'Cây sung cho nhựa.
'Đến chơi con ngựa,
'Con ngựa cho gan.
'Đến chơi bà quan,
'Bà quan cho bạc.
'Đến chơi thợ giác,
'Thợ giác cho bầu.
'Đến chơi cần câu,
'Cần câu cho lưỡi.
'Đến chơi cây bưởi,
'Cây bưởi cho hoa.
'Đến chơi cây cà,
'Cây cà cho trái.
'Đến chơi con gái,
'Con gái cho chồng.
'Đến chơi đàn ông,
'Đàn ông cho vợ.
'Đến chơi kẻ chợ,
'Kẻ chợ cho voi.
'Đến chơi cây sòi,
'Cây sòi cho lá.
'Đến chơi con cá,
'Con cá cho vây.
'Đến chơi ông thầy,
'Ông thầy cho sách.
'Đến chơi thợ ngạch,
'Thợ ngạch cho dao.
'Đến chơi thợ rào,
'Thợ rào cho búa.
**
'Trả búa thợ rào,
'Trả dao thợ ngạch,
'Trả sách ông thầy,
'Trả vây con cá,
'Trả lá cây sòi,
'Trả voi kẻ chợ,
'Trả vợ đàn ông,
'Trả chồng con gái,
'Trả trái cây cà,
'Trả hoa cây bưởi,
'Trả lưỡi cần câu,
'Trả bầu thợ giác,
''Trả bạc bà quan,
'Trả gan con ngựa,
'Trả nhựa cây sung,
'Trả vung nồi chõ,
'Trả mõ ông Chính.
Ở tuổi lớn khôn, trẻ còn được trau giồi ngôn ngữ rất độc đáo, thể hiện sự am hiểu sâu rộng, bằng cách đặt những câu có cùng một chữ cái như nhau. Đây cũng là một đặc điểm biến hóa phong phú của tiếng Việt. Vì tiếng Việt có thể chỉ dùng một chữ phụ âm đầu đặt thành một câu chuyện dài cả trăm chữ, trong khi tiếng Anh, Pháp... chỉ đặt được một hai câu là nhiều:
-'Bà Ba Béo
'Bán bánh Bèo
'Bên bờ biển
'Bị bỏ bóp
'Ba bốn bận.
-'Cơm của cô Cúc
'Có cà, có cá
'Có cả canh chua.
-'Đêm đông đen
'Đằng đem đèn
'Đi đâu đấy?
'-Đằng đem đèn
'Đi đón đưa
'Đứng đợi đó
'Đừng đi đâu đấy.
-'Xã Xệ sang sông
'Xem xổ số
'Xơi sáu xu xôi
'Xốt xồn xột.
-'Thầy thằng Tú
'Túng tiền tiêu
'Tết Trung Thu
'Toan tự tử
'Tôi trông thấy
'Tối thứ tư.
Một số người còn làm được những bài thơ theo một chữ cái duy nhất:
'-Mênh mông muôn mẫu một màu mưa,
'Mỏi mắt miên man mãi mịt mờ.
'Mộng mị mỏi mòn mai mốt mốt,
'Mỹ miều may mắn mấy mà mơ?
(Tú Mỡ)
Một người tuổi Tí, có bài tự sự với toàn chữ T đứng đầu, khá lý thú như sau:
'Tôi tên Trần Thanh Tâm, tuổi Tí, trai thứ tư, tâm tính thật thà, thẳng thắn, trầm tư, thích thưởng thức thơ tình, tiểu thuyết trinh thám. Thuở tí ti, tôi thấp tè, thân thể tong teo, thích tập thể thao, theo Taekowndo. Thầy thương tận tình truyền thụ, tôi tiếp thu tốt, tinh tiến, tỉ thí thử tài, thắng thưởng tám triệu, trao tặng tất trường trẻ tàn tật...
Ở vần 'T' này, hồi sau năm 1975, những người tù cải tạo Miền Nam đã kể một câu chuyện thời sự dài tới mấy trăm chữ, có tình có lý.
Đặc biệt, Ca dao còn có nghệ thuật 'nói ngược' giúp giáo dục nhận định về sự Đúng - Sai, hầu làm quen với ý thức phản biện khởi đầu - Đây là nghệ thuật 'giáo dục hai chiều', khác hẳn với lối giáo dục 'một chiều' phổ biến trên thế giới:
-'Lặng nghe kể ngược
'Cá ở trên núi
'Đựng phân bằng túi
'Đựng trầu bằng cơi
'Biển thì có bờ
'Ruộng thì lai láng
'Hàng xẩm thì sáng
'Tối mịt như đèn
'Hũ miệng thì kèn
'Loa miệng thì lọ.
-'Lên rừng đánh mẻ cá trôi,
'Xuống sông đốn gỗ mà lôi về nhà.
'Lên rừng bắt tép kho cà,
'Xuống sông hái quả thanh trà về ăn.
'Lên rừng bắt con cá măng,
'Xuống sông đánh hổ, đánh trăn mang về.
'Lên rừng lưới bắt cá mè,
'Xuống sông giăng bẫy mà đè gà lôi.
-'Bao giờ cho đến tháng ba,
'Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng.
'Hùm nằm cho heo liếm lông,
'Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi.
'Nắm xôi nuốt trẻ lên mười,
'Con gà be rượu nuốt người lao đao.
'Lươn nằm cho trúm bò vào,
'Một lũ cào cào đuổi bắt cá rô.
'Lúa mạ nhảy lên ăn bò,
'Cỏ năn, cỏ lác rình mò bắt trâu.
'Gà con đuổi bắt diều hâu,
'Chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ nông.
Lối dùng điệp ngữ làm thơ đố - đáp:
'-Duyên duyên, ý ý, tình tình,
'Đây đây, đó đó, mình mình, ta ta.
-'Năm năm, tháng tháng, ngày ngày,
'Chờ chờ, đợi đợi, rày rày, mai mai.
Hơn hết, là lối đố - đáp lái âm & lái ý rất độc đáo, cho thấy sự tài tình của ngôn ngữ Việt Nam, khó có ngôn ngữ nước nào sánh kịp:
-Đố:
'Con cá đối nằm trong cối đá,
'Con mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo.
'Anh mà đối đặng, dẫu nghèo em cũng ưng.
-Đáp:
'Con chim mỏ kiếng đậu trên miếng cỏ,
'Con chó vàng lông nằm ở vồng lang.
'Anh đã đối được, xin nàng theo anh.
-Đố:
'Con cua, con rồng xuôi ngược mấy con?
'Em mà đáp được, anh mua chăn bông tặng liền.
-Đáp:
'Con cua, con rồng xuôi ngược 4 con,
'Cua - Rồng lái là con Công - con Rùa.
'Em đáp được, anh thua chưa?
'Lựa chăn em đắp cho vừa thì mua.
Đố:
-'Có cá đâu mà anh ngồi câu đó?
'Biết có không mà công khó anh ơi?
'Anh ra đây, em chỉ cho nơi cá nhiều.
Đáp:
-'Anh ngồi đây ngày đôi ba lượt,
'Biết mất công mong cất cá lên.
'Đem về làm giống thả bên ao nhà.
Nhận Định
Những bài vè kể trên, rất thích hợp với việc giảng dạy ngôn ngữ Việt cho trẻ nhỏ tuổi, nếu trích dần từng đoạn ngắn, tạo câu hỏi, dùng hình ảnh cụ thể giúp trẻ trực quan, rồi sáng tác thêm những câu tương tự như một kiểu luận văn tí hon...
Thời Quốc ngữ mới hình thành, sách giáo khoa lớp Đồng Ấu đã dùng hình ảnh và loại câu 3 chữ để mô tả, giúp trẻ dễ nhớ mặt chữ, như:
'A quả na
'Ơ quả mơ
'Ô cái Ô...
Thời sau 1945, lối dạy của Bình Dân Học Vụ cho dân quê, cũng đặt thành câu văn vần, vẽ ra các hình ảnh cụ thể, giúp người lớn tuổi dễ học, dễ nhớ, biết đọc biết viết nhanh chóng một thời:
'i tờ giống móc cả hai,
'i ngắn có chấm, tờ dài có ngang.
'O tròn như quả trứng gà
'Ô thời đội nón, a là móc câu.
...
Với các lớp dạy tiếng Việt ở hải ngoại, muốn học sinh vui học, không gì bằng khởi đầu dạy tập đọc, tập viết, quan sát và đặt các câu hỏi qua các bài vè, các bài đồng dao... giúp trẻ chẳng những có các đề tài thân quen, dễ gần gũi làm quen với ngôn ngữ, thấm đượm tình tự dân tộc, mà còn am hiểu văn hóa quốc hồn quốc túy.
Lối dạy các lớp vỡ lòng sau này ở cả hai miền Bắc - Nam, không rõ do đâu mà từ bỏ phương pháp dạy như trên, đi vào phương pháp của nước ngoài như Pháp, Nga... thiếu hẳn các ý tình và vần điệu dễ đi vào lòng người của đặc trưng ngôn ngữ Việt Nam?!
Toán học là môn học phát triển sự suy xét tính toán, thường bị coi là môn học khô khan, nhưng với người Việt môn Toán đã được thi vị hóa bằng nhạc, bằng thơ, bằng những lời lẽ gợi tình, gợi hình, gợi cảm, gợi ý... khiến có thể dễ nhớ và nhớ lâu.
Với trẻ dăm ba tuổi mới biết đi và biết nói, bài hát Con Voi sẽ giúp dạy trẻ biết đếm ngay khi múa hát, bắt chước dáng điệu dễ thương của con voi:
-'Trông kià con voi nó đứng rung rinh,
'Vươn mình trong đám cỏ cây đẹp tươi.
'Anh chàng voi ta thích chí mê tơi,
'Liền mời voi khác đằng xa lại chơi.
-'Trông kìa 2 voi chúng đứng rung rinh...
Và bài hát tăng lên 3, 4, 5... khi số voi được mời là các em bé đóng vai voi gia tăng.
Và Con Voi cũng được biến thành bài dạy về toán pháp, mô tả qua cách đếm khi múa, như bài:
-'Con vỏi con voi
'Cái vòi đi trước
'Hai chân trước đi trước
'Hai chân sau đi sau
'Còn cái đuôi đi sau rốt
'Tôi xin kể nốt
'Câu chuyện con voi.
-'Hai vỏi hai voi
'Hai vòi đi trước
'Bốn chân trước đi trước,
'Bốn chân sau đi sau
'Hai cái đuôi đi sau rốt
'Tôi xin kể nốt
'Cái chuyện hai voi.
-'Ba vỏi ba voi
'Ba vòi đi trước
...
Lớn hơn một chút, khoảng 4 tuổi, trẻ có thể tập đếm và luyện phát âm qua trò chơi đếm sao trời, qua bài:
'1 ông sao sáng
'2 ông sáng sao
'3 ông sao sáng
'4 ông sáng sao
'5 ông sao sáng
'6 ông sáng sao...
Lớn nữa, học phép tính nhân qua bài Đếm Chuột:
-'1 con chuột là 1 cái đuôi
'2 tai, 2 mắt, 1 đầu, và 4 cái chân.
-'2 con chuột là 2 cái đuôi
'4 tai, 4 mắt, 2 đầu, và 8 cái chân.
-'3 con chuột là cái đuôi
'6 tai, 6 mắt, 3 đầu, và 12 cái chân
hoặc cao hơn như đếm chân cua:
-'1 con cua vào hang,
'2 càng và 8 chân.
-'2 con cua vào hang,
'4 càng, 16 chân.
-3 con cua vào hang,
'6 càng, 24 chân.
...
Cứ thế đếm và nhân thêm lên bằng phép tính nhẩm, tập luyện tính toán một cách thích thú.
Về tính trừ, có bài:
'Ngày xửa ngày xưa
'Có 10 ông vua
'Một ông tịt mít
'Chết 1 còn 9
'Một ông ị rín
'Chết 1 còn 8
'Một ông vốc cám
'Chết 1 còn 7
'Một ông đái bậy
'Chết 1 còn 6
'Một ông láu táu
'Chết 1 còn 5
'Một ông sâu răng
'Chết 1 còn 4
'Một ông lở rốn
'Chết 1 còn 3
'Một ông ghẻ da
'Chết 1 còn 2
'Một ông thối tai
'Chết 1 còn 1
'Một ông toét mắt
'Chết 1 là hết.
Độc đáo nhất về tính toán và khéo tay của trẻ gái, là trò chơi 'truyền thẻ', còn gọi là 'rải ranh', dùng 10 chiếc que như chiếc đũa nhỏ và một hòn đá, sau này là quả bóng nhỏ. Trò chơi kèm theo các bài hát chỉ dẫn cuộc chơi dài tới 14 chặng, khi hai tay vừa phải tung hứng viên đá, vừa phải nhặt số que cho đúng với câu hát hướng dẫn. Rồi từ 1 tay chuyển qua 2 tay khi thực hiện các động tác khó khăn hơn, đòi hỏi sự kết hợp cả hai tay qua các động tác như chuyền, chống, quét, đập, chải, vuốt, thấm, xóa, giã, tiả... giúp cổ tay và ngón tay xoay tròn các phiá, mà trở nên khéo léo trong việc nữ công gia chánh cũng như phát huy óc tính nhẩm:
Chặng thứ nhất gồm 10 bàn nhặt thẻ từ 1 đến 10.
Chặng thứ 2 gồm 5 bàn chuyền thẻ.
Chặng thứ 3 gồm 5 bàn chống thẻ.
Chặng thứ 4 gồm 5 bàn quét thẻ.
Chặng thứ 5 gồm 5 bàn đập thẻ.
Chặng thứ 6 gồm 5 bàn chải thẻ.
Chặng thứ 7 gồm 5 bàn vuốt thẻ.
Chặng thứ 8 gồm 5 bàn thấm thẻ (đặt khẽ).
Chặng thứ 9 gồm 5 bàn xóa thẻ.
Chặng thứ 10 gồm 5 bàn giã thẻ.
Chặng thứ 11 gồm 5 bàn tiả 1 đặt 1.
Chặng thứ 12 gồm 5 bàn tỉa 1 đặt 2.
Chặng thứ 13 gồm 5 bài lên xuống.
Chặng thứ 14 gồm 5 bài chuyền thẻ.
Ai chơi hỏng phải nhường người khác chơi, khi người khác chơi hỏng mới được chơi tiếp theo phần chơi hỏng. Ai xong trước 14 chặng là thắng cuộc chơi.
Người bình dân Việt còn có thể dùng văn vần đưa ra những bài toán 2 ẩn số, 3 ẩn số, rồi giải đáp bằng cách tính nhẩm rất độc đáo:
-'Vừa gà vừa chó 36 con,
'Trói lại vừa tròn, 100 chân chẵn.
'Hỏi có mấy con gà, mấy con chó?
-'100 con trâu, 100 bó cỏ
'Trâu đứng ăn 5, trâu nằm ăn 3
'Nghé hoa 3 con 1 bó
'Hỏi có bao nhiêu con trâu đứng, trâu nằm, nghé hoa?
Trong ca dao, còn có bài toàn con số tính nhẩm về 1 quan tiền đi chợ, ngoài cách tính tổng cộng chi li, còn cho hậu thế biết về giá cả các thứ hàng hóa đương thời, giúp các kinh tế gia tư liệu nghiên cứu về đời sống kinh tế Việt Nam thời xa xưa:
'Một quan tiền tốt mang đi,
'Nàng mua những gì, mà tính chẳng ra?
'Thoạt tiên mua 3 tiền gà,
'Tiền rưỡi gạo nếp, với 3 đồng trầu.
'Trở lại mua 6 đồng cau,
'Tiền rưỡi miếng thịt, giá rau 10 đồng.
'Có gì mà tính chẳng thông,
'Tiền rưỡi gạo tẻ, 6 đồng chè tươi.
'30 đồng rượu chàng ơi,
30 đồng mật, 20 đồng vàng.
'Hai chén nước mắm rõ ràng,
' 2 bảy 14, kẻo chàng hồ nghi.
'21 đồng bột nấu chè,
'10 đồng nải chuối, chẵn thì 1 quan.
-'Hôm qua dạo phố cầm khăn,
'Cầm được đồng bạc để dành cưới em.
'Ba hào anh để mua tem,
'Gửi thư mời khắp anh em xa gần.
'Họ hàng ăn uống linh đình,
'Để ai cũng biết là mình lấy ta.
'Hào tư anh để mua gà,
'Sáu xu mua rượu, hào ba đi tàu.
'Bảy xu anh để mua cau,
'Một hào mua gói chè tàu uống chơi.
'Một hào cả đậu lẫn xôi,
'Một hào gạo tẻ với với nồi rau dưa.
'Anh ngồi anh tính thật vừa,
'Cưới em đồng bạc, chẳng thừa xu mô.
Hồi năm 1950, ở Hà Nội có thầy Hoàng Đình Tuất dạy lớp nhất trường Nguyễn Công Trứ, ở phố Hàng Than, đã đặt một số công thức toán thành thơ, giúp học trò dễ nhớ:
-'Trên đường kẻ trước với người sau,
'Hai kẻ đồng chiều đuổi gấp nhau.
'Vận tốc đôi bên tìm hiệu số,
'Đường dài chia với, khó chi đâu.
-'Trên đường kẻ trước với người sau,
'Hai kẻ ngược chiều muốn gặp nhau.
'Vận tốc đôi bên tìm tổng số,
'Đường dài chia với, khó chi đâu.
**
Trẻ Việt ngày xưa còn được tập luyện óc tính toán qua các lối chơi cờ, như cờ Hùm, cờ Chân Chó... đặc sắc nhất là chơi Ô Ăn Quan... đòi hỏi phải tính toán nước đi thật sáng suốt, mới có thể thắng. Đây là cách đấu trí qua sự thực tập tính toán rất bổ ích, mà bấy nay bị nhà trường coi nhẹ, không đưa vào chương trình học, bổ túc cho các giờ Toán học, thật đáng tiếc?
Trò chơi Ô Ăn Quan
Một hình vẽ chữ nhật dài 70cm, rộng 40cm; mỗi 10cm vẽ 1 vạch ngang thành 7 ô, mỗi ô có chiều ngang 10cm. Hai ô hai đầu để trống, vẽ vạch dọc dài chia 5 ô giữa làm 2 phần bằng nhau, sẽ được 5 ô nhỏ mỗi bên.
Trò chơi cho 2 em từ 6 đến 12 tuổi, mỗi em có 25 viên sỏi nhỏ mỗi viên bằng một đầu ngón tay gọi là dân, và 1 viên lớn bằng 5 đầu ngón tay gọi là quan.
Hai viên quan đặt ở 2 ô hai đầu, còn mỗi bên đặt 5 viên dân vào mỗi ô trong 5 ô ở phiá bên mình ngồi.
Muốn biết ai đi trước, hai bên phải chơi 'một - hai - ba', ra cái gì, ra cái này' theo luật nắm tay là búa, xòe tay là giấy, đưa ra 2 ngón tay là kéo.
Giấy bọc búa nên thắng búa, nhưng thua kéo vì bị kéo cắt.
Kéo cắt giấy nên thắng giấy, nhưng thua búa vì bị búa đập gẫy.
Búa thắng kéo vì đập gẫy kéo, nhưng thua giấy vì bị giấy bọc.
Người thắng được đi trước sẽ phải tính toán bắt đầu bốc sỏi từ ô nào, đi về phía bên phải hay phiá bên trái, để có thể ăn được một số viên sỏi dân hay quan nhiều nhất.
Nguyên tắc đi là rải dân trên đường, mỗi ô 1 viên dân. đến đâu hết thì bốc các viên dân ở các ô kế đi tiếp, nếu hết trước ô quan thì không được đi thêm, gọi là bị 'chững' - phải để cho phiá bên kia đi. Nếu cách ô quan hay ô dân 1 ô trống sẽ được ăn - tức hốt hết các viên sỏi quan hay dân ở ô đó.
Cứ vậy tính toán cách đi bằng chọn ô nào bên phiá của mình, đi về bên phải hay bên trái để tạo ô trống trước khi bị chững, hầu có thể ăn hết quan và dân ở các ô cách ô trống , và có thể ăn tiếp theo luôn ở các ô trống cách quãng như vậy.
Một khi 2 ô quan ở hai đầu bị ăn mất viên sỏi quan, thì sẽ nói:
'Hết quan, tàn dân,
'Thu quân kéo về.
Lúc đó sẽ được thu luôn các sỏi dân còn lại phiá các ô dân bên mình, rồi cộng với các viên sỏi dân đã ăn được, tính điểm ai nhiều viên sỏi quan và dân hơn, sẽ thắng. Mỗi viên quan được tính 5 diểm, trong khi mỗi viên dân chỉ được tính 1 điểm.
Ván tiếp theo sẽ xếp trả lại các viên sỏi quan và dân như khởi đầu, và ai thua sẽ được đi trước, hoặc có thể chơi lại 'một - hai - ba ra cái gì, ra cái này'. xem ai thắng sẽ được đi trước.
Trò chơi Ô Ăn Quan giúp trẻ tính toán một cách rất phóng khoáng, khi có thể tùy ý bắt đầu đi ở ô nào cũng được, đi sang bên trái hay bên phải tùy theo sự tính toán... nên so với các lối chơi 'kiểu cờ' của thế giới, đây là trò chơi dễ dàng và thú vị nhất, tập cho người chơi cách tính nhẩm số quân và số ô rải quân... ngày một tinh tiến hơn.
Nhận Định
Toán học là một môn học trừu tượng, đòi hỏi sự suy nghĩ khó khăn. Do vậy nếu được giảng dạy cụ thể bằng các trò chơi đòi hỏi sự tính toán, bằng các hình ảnh và văn vần như trong ca dao, sẽ hấp dẫn việc học, tạo hứng thú ban đầu lôi cuốn trẻ nhỏ.
Thường một học sinh giỏi luôn có thành tích cao về môn toán, và một khi giỏi toán thì các môn học khác cũng dễ dàng đạt hiệu quả hơn.
Môn Toán học luôn chiếm địa vị quan trọng trong thi cử và trong công việc làm từ trước đến nay, đem lại các thành quả lớn cho các người giỏi toán.
Những nhận xét trên cho thấy nhu cầu dạy và học toán rất quan trọng vậy?
Một nhận xét đáng chú ý, là gần đây khi du học nước ngoài, du sinh Việt rất giỏi về môn Toán. Năm 2010, một người Việt học và làm việc tại Pháp - Mỹ là Giáo sư Ngô Bảo Châu đã được lãnh giải toán học Fields - giải về toán cao nhất thế giới, được coi như giải Nobel vì Nobel không có giải về toán học.
Xưa nay hai môn Toán và Văn luôn bị coi là đối lập nhau, ai giỏi toán thường khó khăn trong việc học văn, hoặc ngược lại? Vậy mà người Việt đã có thể dùng thơ văn để giảng dạy về Toán học, quả là điều đặc sắc, đáng để chúng ta cùng nhau nghiên cứu phát triển?
Nếu trong cuộc sống văn minh hiện đại, mỗi ngày chúng ta phải coi dự báo thời tiết một cách gián tiếp qua các phương tiện truyền thông, như truyền hình, truyền thanh, báo chí, internet, IPhone... thì ngay từ xa xưa Người Việt đã biết quan sát trực tiếp các hiện tượng thiên nhiên, như Mây - Gió - Cầu Vồng, các Sinh Vật... để từ đó rút ra các kinh nghiệm về thời tiết, hầu có thể đoán biết Mưa Nắng một cách khá chính xác, truyền đạt cho nhau, mà không cần đến các phương tiện khoa học như Phong Vũ biểu, Hàn Thử biểu, Vệ tinh...
Đã từ lâu, Người Việt có thể biết trước các hiện tượng khác nhau về thời tiết, qua các tín hiệu trong trời đất, từ bầu trời trên cao xuống đến các sinh vật dưới thấp, để né tránh, giảm các thiệt hại do thời tiết bất thường gây ra cho mùa màng, các sinh hoạt hoạt canh tác, phơi khô để dự trữ lương thực thường ngày...
Những nhận xét các hiện tượng trải qua nhiều năm tháng, thấy đúng, mới được coi là 'điềm', đặt thành những câu văn vần ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ để truyền thụ, phổ biến rộng rãi và lâu dài:
'Đêm trời lạnh, trăng sao không tỏ,
'Đó là điềm mưa gió tới nơi.
'Đêm nào sao sáng đầy trời,
'Là điềm nắng ráo, yên vui suốt ngày.
'Những ai chăm việc cấy cày,
'Điềm trời xem trước, liệu xoay việc mình.
Điềm chính là một hình thức như các 'định luật' ban đầu của môn khoa học thực nghiệm sau này, chỉ khác khoa học thực nghiệm ở chỗ điềm thay vì đi từ giả thiết đến thí nghiệm để kiểm chứng, hầu đạt tới các định luật khoa học thực nghiệm; thì 'điềm' nhận xét rồi kiểm nghiệm các thực tế về khí tượng diễn ra hàng năm, hàng tháng, hàng ngày, rồi mới xác định không gian và thời gian các hiện tượng sẽ xuất hiện như một định luật.
Điều đặc sắc là một hiện tượng trong thiên nhiên, như mưa - nắng - giông - bão... thường được báo hiệu qua nhiều tín hiệu khác hẳn nhau, từ vô tri đến hữu tri, nên nếu lưu ý có thể đạt trình độ hiểu biết chính xác cao, giúp ai nấy nắm vững vấn đề thời tiết thay đổi một cách trực tiếp, không cần nhờ đến sự chỉ dẫn nào khác.
Nói khác đi, Người Việt ngày xưa muốn biết thời tiết sắp tới sẽ nắng mưa ra sao, họ chỉ cần nhìn trời và quan sát vài sinh vật xung quanh, là biết ngay. Đây là yếu tố quyết định sự sinh tồn thịnh suy dài lâu của một dân tộc sống về nông nghiệp, khi khoa học còn chưa phát triển, mà đã mang tính khoa học thực nghiệm.
A/ Điềm mưa nắng qua bầu trời:
Việt Nam là một quốc gia Nông nghiệp, lấy việc trồng trọt ngũ cốc làm sinh kế chính, nên nếu không biết rõ thời tiết để lo liệu, sẽ bị mất mùa tổn thất nặng nề, nên đã nghĩ ra nhiều cách để quan sát sự thay đổi của khí hậu, hầu lựa chọn thời gian và không gian thích hợp có thể gieo trồng các loại hoa màu khác nhau:
'Trông trời, trông đất, trông mây,
'Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm.
'Trông cho chân cứng, đá mềm,
'Trời êm, bể lặng, mới yên tấm lòng.
Nếu người Trung Hoa có khoa Phong Thủy - xem Gió và Nước để xây dựng tạo thuận lợi cho sức khỏe từ cung điện, thành trì lớn lao, đến nhà cửa nhỏ bé, thì khoa Phong Thủy của người Việt còn được tìm hiểu qua hiện tượng Mưa & Gió Bốn Mùa, để canh tác sao cho cây trái tốt tươi, thu hoạch tốt đẹp.
Người Việt cho rằng cần có 4 yếu tố quyết định trong canh tác, là:
'Nhất nước,
'Nhì phân,
'Tam cần,
'Tứ giống.
Vì nước mưa là yếu tố cần nắm vững, quan trọng nhất trong việc trồng trọt, từ gieo cấy, thu hoạch đến phơi khô để dành lâu ngày... nên Người Việt đã tìm cách quan sát về mưa nắng rất kỹ, hầu có thể biết rõ về hiện tượng mưa nắng trong ngày đêm, trong các tháng hàng năm:
**Về Ngày Đêm:
-'Nhiều sao thì nắng,
'Vắng sao thì mưa.
-'Trăng quầng thì cạn,
'Trăng tán thì mưa.
-'Mưa không qua ngọ,
'Gió chẳng qua mùi.
-'Chớp đông nhay nháy,
'Gà gáy thì mưa.
**Về Tháng:
-'Mồng 9 tháng 9 có mưa,
'Thì con sắm sửa cày bừa làm ăn.
'Mồng 9 tháng 9 không mưa,
'Thì con bán cả cày bừa đi buôn.
-'Muốn ăn lúa tháng 5,
'Xem trăng rằm tháng 8.
'Muốn ăn lúa tháng 10,
'Xem trăng mồng 8 tháng tư.
-'Tháng 3 mưa đám,
'Tháng 8 mưa cơn.
-'Tháng 8 mưa trai,
'Tháng 2 mưa thóc.
-'Tháng 9 mưa rươi,
'Tháng 10 mưa cữ.
B/ Điềm mưa nắng qua mây:
-'Mây xanh thì nắng,
'Mây trắng thì mưa.
-'Mây vàng thì gió,
'Mây đỏ thì mưa.
-'Mây mỡ gà thì gió,
'Mây mỡ chó thì mưa.
-'Mây kéo xuống biển thì nắng chang chang,
'Mây kéo lên ngàn thì mưa như trút.
-'Cơn đằng Bắc, đổ thóc ra phơi.
'Cơn đằng Tây, vừa cày vừa ăn
'Cơn đằng Đông, vừa trông vừa chạy.
'Cơn đằng Nam, vừa làm vừa chơi.
-'Thâm Đông, hồng Tây, dựng mây,
'Ai ơi ở lại 3 ngày hãy đi.
C/ Điềm mưa nắng qua cầu vồng:
-'Mống vàng thì nắng,
'Mống trắng thì mưa.
-'Mống cao gió táp,
'Mống thấp mưa rào.
-'Mống dài trời lụt,
'Mống cụt trời mưa.
-'Mống bên đông, vồng bên tây,
'Chẳng mưa dây, cũng bão giật.
D/ Điềm mưa nắng qua gió:
-'Gió heo may, chuồn chuồn bay thì bão.
-'Gió heo may, chẳng mưa giầm, cũng bão giật.
-'Mùa hè gió đông, thì đồng đầy nước.
E/ Điềm mưa nắng qua các sinh vật:
-'Tháng 7 heo may,
'Chuồn chuồn bay thì bão.
-'Chuồn chuồn bay thấp thì mưa,
'Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm.
-'Én bay thấp, mưa ngập bờ ao,
'Én bay cao, mưa rào rồi tạnh.
-'Kiến cánh vỡ tổ bay ra,
'Bão táp mưa sa sắp tới.
-'Kiến đen tha trứng lên cao,
'Thế nào cũng có mưa rào rất to.
-'Ếch kêu à uôm,
'Ao chuôm đầy nước.
-'Quạ tắm thì nắng,
'Sáo tắm thì mưa.
-'Mùa hè đang nắng,
'Cỏ gà trắng thì mưa.
-'Năm trước được cau,
'Năm sau được lúa.
-'Nắng sớm thì đi trồng cà,
'Mưa sớm ở nhà phơi thóc.
Nhận Định
Nếu Tây phương phải chế ra Phong Vũ biểu, Hàn Thử biểu rồi thêm nhiều phương tiện hiện đại hơn để biết thời tiết, dựa trên áp suất của không khí, nhiệt độ đổi thay... thì Người Việt từ xa xưa đã biết ảnh hưởng của áp suất không khí đối với thời tiết, qua các sinh vật xung quanh một cách bén nhạy không thua kém.
Cụ thể con chuồn chuồn là sinh vật mỏng manh yếu đuối, một khi trời sắp mưa hơi nước có nhiều trong không khí, tạo áp suất cao khiến nó không thể bay lên cao... mà trở thành một thứ Phong Vũ biểu tự nhiên, dễ thấy, không mất công chế tạo, chẳng tốn tiền mua sắm:
'Chuồn chuồn bay thấp thì mưa,
'Bay cao thì nắng, bay vừa thì êm.
Còn con chim én sở dĩ mạnh khỏe mà bay thấp khi trời sắp mưa, là do các con mồi của nó là loài mối có cánh, cũng yếu như con chuồn chuồn, khi từ trong tổ bay ra để tránh bị mưa ngập hang ổ, gặp hơi nước nhiều, chỉ thể bay là là dưới thấp.
Nếu một số hiện tượng tự nhiên như trăng, sao, mây, cầu vồng... có thể báo hiệu chung cho mưa nắng ở khắp nơi trên địa cầu, thì riêng về gió lại chịu ảnh hưởng các loại gió khác nhau ở mỗi nơi trên địa cầu, như gió mùa, gió địa phương... nên nếu nắm vững quy luật về gió ở từng vùng, ta cũng có thể biết ảnh hưởng của gió đối với mưa nắng từng nơi ra sao.
Những kinh nghiệm về thời tiết của người bình dân Việt Nam, phát biểu cô đọng qua các 'điềm' trong ca dao, tục ngữ, có thể giải thích một cách rất khoa học, tạo thích thú khi đem vào nhà trường giảng dậy ở các giờ học về khoa học tự nhiên, khí tượng học... kích thích óc quan sát của học sinh với không gian sinh sống trên khắp thế giới, nêu các nhận định về thời tiết qua cây cỏ & sinh vật xung quanh, đặt thành ca dao... sống động và hữu ích vô kể?
Đời sống nông nghiệp rất vất vả, nên ngoài sức người còn cần đến sự trợ giúp một một số động vật, được thuần hóa thành gia súc.
Người Việt từ xưa đã có truyện "Lục súc tranh công', nội dung nói về công lao của 6 gia súc là trâu, ngựa, chó, dê, gà, heo, hầu hiểu biết thương yêu chúng hơn nữa:
-Trâu có công kéo cầy bừa, kéo xe... nặng nhọc trong việc sản xuất thóc lúa.
-Chó có công coi nhà canh trộm.
-Ngựa có công đưa chủ tới lui thời bình, đánh giặc thời loạn.
-Dê có công trong việc hiến thịt tế lễ.
-Gà có công gáy sáng, gọi chủ dậy sớm ra đồng làm việc.
-Heo có công hiến thịt tế lễ.
Thực ra còn phải kể đến Mèo có công bắt chuột, bảo vệ các loại thực phẩm. Bò cũng có công như trâu, nhưng yếu hơn trâu...
Khi nuôi các loài gia súc thông dụng kể trên, Người Việt có các tiêu chuẩn chọn lựa những gia súc mạnh khỏe, chăm chỉ, ít thói xấu nhất. Đây cũng là một cách dạy am hiểu - theo kiểu 'xem tướng' loài vật, mà Tây phương đến nay hầu như vẫn chưa biết tới. Nếu biết có lẽ sẽ rất thú vị:
**Tiêu chuẩn về Trâu:
-'Trâu năm sáu tuổi còn nhanh,
'Bò năm sáu tuổi đã tranh về già.
-'Trâu gầy cũng tày bò giống.
-'Lang đuôi đem bán,
'Lang trán để cày.
-'Tam tinh khoáy sọ thì chừa,
'Đốm đuôi nát chủ thì đưa vào nồi.
(Trâu có khoáy ở trán, hoặc đốm ở đuôi, là trâu xấu)
-'Con trâu là đầu cơ nghiệp.
**Tiêu chuẩn về Gà:
-'Gà gáy vang vang,
'Việc làm nhàn hạ.
'Gà gáy khàn khàn,
'Việc làm vất vả.
-'Gà đen chân trắng,
'Mẹ mắng cũng mua.
'Gà trắng chân chì,
'Mua chi giống ấy.
-'Nuôi gà phải chọn giống gà,
'Gà ri bé giống, nhưng mà đẻ mau.
'Nhất to là giống gà nâu,
'Lông dày, thịt béo, về sau đẻ nhiều.
-'Gà nâu chân thấp, mình to,
'Đẻ nhiều, trứng lớn, con vừa khéo nuôi.
'Chẳng nên nuôi giống pha màu,
'Đẻ không được mấy, con nuôi vụng về.
**Tiêu chuẩn về Chó:
-'Đuôi chìa khóa,
'Chủ khấm khá.
(tức đuôi chó hay mèo xoắn thành nút)
-'Tứ túc mai hoa,
'Thấy là phải nuôi.
(tức 4 bàn chân lông trắng).
-'Nhất mực, nhì vàng,
'Tam khoang, tứ đốm.
-'Mèo đến nhà thì khó,
'Chó đến nhà thì giàu.
-'Chó khôn tứ túc huyền đề,
'Tai thì hơi cúp, đuôi thì hơi cong.
'Con nào mõm nhọn, đít vồng,
'Ăn càn, cắn bậy, nuôi không ra gì.
**Tiêu chuẩn về heo:
-'Heo nhà, gà chợ.
-'Heo đói một bữa,
'Bằng người đói nửa năm.
-'Heo đói một năm,
'Không bằng tằm đói một bữa.
-'Giàu nuôi heo nái,
'Lụn bại nuôi bồ câu.
Nhận Định
Người Việt nuôi gia súc ngoài việc hỗ trợ công việc, lấy thịt ăn, lấy phân bón cây, còn cầu sự hên may, nên có những phép xem tướng gia súc - vì cho rằng khi nuôi được con chó, con mèo, con trâu, cọn ngựa, con gà... có tinh tướng và hình tướng tốt, sẽ làm ăn phát đạt, trở nên giàu có mau chóng, người trong nhà mạnh khỏe, không khí gia đình trở nên vui tươi, hạnh phúc.
Điều này cũng dễ hiểu, vì khi nuôi một con vật khỏe mạnh, đẹp đẽ, khôn ngoan... sẽ tạo ra nhiều thích thú hơn những con vật ốm yếu, xấu xí, hư hỏng.
Các sự kiện kể trên cho thấy, gia súc không chỉ được Người Việt nuôi để ích dụng, mà còn ảnh hưởng cả đến đời sống tâm linh, nên sự liên hệ giữa người và vật phát triển các cảm quan, mang tính văn hóa & giáo dục nhiều bề, mà ít có chuyện hành hạ súc vật.
Theo tác giả Gourou trong sách 'Le paysan du delta tonkinois' viết hồi giữa Thế kỷ
20, thì nhiều nhà Nông học Tây phương khi tới khảo sát công việc canh tác của nông dân tại Việt Nam, phải cho rằng 'Khó lòng cải lương kỹ thuật canh tác ấy cho hơn thế được - vì nó đã đến chỗ hoàn hảo rồi'.
Và ca dao đã làm công việc giáo dục & truyền bá các kiến thức canh tác của nông dân Việt, trải qua các kinh nghiệm về đồng áng, từ thời gian đến không gian, trở thành một kho tàng qúy giá giúp ai nấy dễ dàng hiểu biết, thực hành:
**Thời gian Canh tác:
Tùy theo nơi vùng ruộng chiêm đất thấp bị ngập lụt, hay ruộng mùa đất cao, mà có thời biểu cùng phương pháp canh tác khác nhau:
-'Khó thay công việc nhà quê,
'Quanh năm khó nhọc, dám hề khoan thai.
'Tháng chạp (12) là tháng trồng khoai,
'Tháng giêng (1) trồng đậu, tháng 2 trồng cà.
'Tháng 3 cầy vỡ ruộng ra,
'Tháng tư (4) gieo mạ, thuận hòa mọi nơi.
'Tháng 5 gặt hái vừa rồi,
'Bước sang tháng 6 nước trôi đầy đồng.
'Nhà nhà, vợ vợ, chồng chồng,
'Ra làm ngoài đồng, sá kể sớm trưa.
'Tháng 6, tháng 7, khi vừa,
'Vun bón gốc lúa, bỏ chừa cỏ tranh.
'Tháng 8 lúa giỗ đã đành,
'Tháng 10 gặt hái cho nhanh, kịp thời.
'Khó khăn trong mấy tháng trời,
'Thuận hòa mưa nắng, mới ngơi tấm lòng.
-'Tháng giêng (1) là tháng ăn chơi,
'Tháng 2 trồng đậu, trồng khoai, trồng cà.
'Tháng 3 thì đậu đã già,
'Ta đi ta hái về nhà phơi khô.
'Tháng tư (4) đi tậu trâu bò,
'Để ta sắm sửa làm mùa tháng 5.
'Sáng ngày đem lúa ra ngâm,
'Bao giờ mọc mầm, ta sẽ vớt ra.
'Gánh đi ta ném ruộng ta,
'Đến khi lớn mạ thời ta nhổ về.
'Sắp tiền mướn kẻ cấy thuê,
'Cấy xong rồi mới trở về nghỉ ngơi.
'Cỏ ruộng dọn đã rạch rồi,
'Nước ruộng vơi mười, còn độ một hai.
'Ruộng thấp đóng một gầu giai,
'Ruộng cao thì phải đóng hai gầu sòng.
'Chờ cho lúa có đòng đòng,
'Bấy giờ ta sẽ trả công cho người.
'Bao giờ cho đến tháng 10,
'Ta đem liềm hái ra ngoài ruộng ta.
'Gặt lúa ta đem về nhà,
'Phơi khô, quạt sạch, mới là xong công.
-'Muốn ăn lúa tháng 5
'Trông trăng rằm tháng 8.
'Muốn ăn lúa tháng 10,
'Trông trăng mồng mười tháng tư.
-'Thiếu tháng 2 mất cà,
'Thiếu tháng 3 mất đỗ,
'Thiếu tháng 8 mất hoa ngư
'Thiếu tháng tư (4) mất hoa cốc.
-'Lao xao gà gáy rạng ngày,
'Vai vác cái cầy, tay dắt con trâu.
'Bước chân xuống cánh đồng sâu,
'Mắt nhắm mắt mở theo trâu đi cầy.
'Ai ơi ăn bát cơm đầy,
'Nhớ công hôm sớm cấy cầy hay chăng?
**Không gian canh tác:
Nông dân phải theo dõi các điềm báo về mưa nắng, để lo đối phó kịp thời, tránh bớt các thiệt hại:
-'Nửa đêm sao sáng mây cao,
'Điềm trời nắng gắt, nắng gào chẳng sai.
'Lúa khô, nước cạn, ai ơi!
'Bảo nhau tát nước, chờ trời còn lâu.
"Đêm ảm đạm, trăng sao không tỏ,
'Ấy là điềm mưa gió tới nơi.
'Đêm nào sao sáng xanh trời,
'Ấy là nắng ráo, yên vui suốt ngày.
'Những ai chăm việc cấy cầy,
'Phải biết điềm trời trong việc nông tang.
-'Nơi sâu thì cấy lúa chiêm,
'Nơi nào cao ráo thì đem cấy mùa.
'Chớ tham những ruộng 2 mùa,
'Chiêm se, gié ngập, ăn thua nỗi gì?
-'Hễ mà hoa quả được mùa,
'Chắc là ruộng đất được mưa ngập trời.
'Ai ơi nên nhớ lấy lời,
'Trông điềm trời đất, liệu thời làm ăn.
-'Lúa chiêm nép ở đầu bờ,
'Hễ nghe tiếng sấm, phất cờ mà lên.
-'Gió đông là chồng lúa chiêm,
'Gió bấc là duyên lúa mùa.
-'Tỏ trăng 14 được tằm,
Tỏ trăng hôm rằm (15) thì được lúa chiêm.
-'Mưa tháng 3 hoa đất,
'Mưa tháng tư (4) hư đất.
-'Trăng mờ tốt lúa nỏ,
'Trăng tỏ tốt lúa sâu.
**Kỹ thuật trồng lúa:
-'Phân tro không bằng no nước.
-'Không nước, không phân,
'Chuyên cần vô ích.
-'Nhai kỹ no lâu,
'Cầy sâu tốt lúa.
-'Tốt giống, tốt má,
'Tốt mạ, tốt lúa.
-'Một gầu tát,
'Một bát cơm.
-'Ruộng không phân,
'Như thân không của.
-'Mạ chiêm 3 tháng chưa già,
'Mạ mùa tháng rưỡi ắt là chẳng non.
-'Mạ chiêm không có bèo dâu,
'Khác nào như thể ăn trầu không vôi.
-'Lúa chiêm thì cấy cho sâu,
'Lúa mùa thì gẫy cành dâu là vừa.
-'Ra đi anh có dặn dò,
'Ruộng sâu cấy trước, ruộng gò cấy sau.
-'Gỗ kiến anh để đóng cầy,
'Gỗ lim, gỗ sến, anh nay đóng bừa.
'Răng bừa 8 cái còn thưa,
'Lưỡi cầy 8 tấc mới vừa luống to.
'Muốn cho lúa lúa trổ bông to,
'Cầy sâu, bừa kỹ, phân tro cho nhiều.
-'Tháng 5 cho chí tháng 10,
'Năm 12 tháng, em ngồi em suy.
'Vụ chiêm em cấy lúa Di,
'Vụ mùa lúa Dé, sớm thì Ba Giăng.
**Kỹ thuật trồng rau trái:
-'Chiêm xong lại đến vụ mùa,
'Hết mùa rau muống, đến mùa cải hoa.
'Đừng khinh dưa muối, tương cà,
'Tuy rằng ít bổ, nhưng mà có luôn.
-'Cuối thu trồng cải, trồng cần,
'Ăn suốt 6 tháng, cuối xuân mới tàn.
'Bấy giờ rau muống đã lan,
'Lại ăn cho đến thu tàn thì thôi.
'Mùa nào rau ấy lần hồi,
'Lọ là đem của cho người ta ăn?
-'Đất mầu trồng đậu, trồng ngô,
'Đất lầy cấy lúa, đất khô làm vườn.
'Ngày rảnh rỗi, em đi buôn,
'Quanh năm no ấm, còn buồn nỗi chi?
-'Mít chặt cành,
'Chanh chặt rễ.
-'Khoai ruộng lạ,
'Mạ ruộng quen.
-'Nắng tốt dưa,
'Mưa tốt lúa.
-'Hoa bí vàng au,
'Hoa bầu trắng xóa.
'Muốn được ăn quả,
'Xin chớ ngắt hoa.
'Ai về nhắc chị em nhà,
'Muốn cho trái lớn, liệu mà bón phân.
-'Vườn trước trồng cau,
'Vườn sau trồng dừa.
-'Đất thiếu trồng dừa,
'Đất thừa trồng cau
-'Trời nồm tốt mạ,
'Trời giá tốt rau.
-'Nuôi tằm cần đến cây dâu,
'Muốn cho dâu tốt, phải mau vun trồng.
'Vườn thì cuốc rãnh song song,
'Cách nhau 2 thước, đặt hom cho đầy.
'Cây dâu ưa nước xưa nay,
'Nhưng bị ngập nước, thì cây úa tàn.
Nhận Định
Ngày nay ở hải ngoại cũng như ở trong nước, chúng ta thấy có rất nhiều sách và tài liệu viết về cách trồng trọt các loại cây, nhưng đọc những chỉ dẫn kể trên của ca dao & tục ngữ Việt chúng thấy thú vị hơn, dễ nhớ hơn, có những nhận xét tổng quát hơn.
Do vậy khi đem những câu tục ngữ, ca dao nói về cách trồng cây giảng dạy cho học sinh, ra bài cho học sinh theo dõi nhận xét và làm ca dao về thời tiết nơi mình đang sinh sống, sẽ khiến giới trẻ cảm thấy tò mò thích thú, quan tâm tới thiên nhiên mà quan sát theo dõi, để rồi yêu qúy thiên nhiên, tham gia các buổi sinh hoạt bảo vệ thiên nhiên và môi trường sống, một cách có ý thức và nhiệt thành hơn.
Giảng dạy kiến thức về các địa danh văn hóa, lịch sử, kinh tế, xã hội... mỗi quốc gia, là điều rất khó khăn của môn Địa Lý, vì đòi hỏi những nghiên cứu, tìm hiểu, ghi chép tường tận, có giá trị vượt không gian và thời gian.
Tuy nhiên, những đòi hỏi quá khó khăn này, đã được kho tàng Tục Ngữ & Ca Dao Việt Nam thực hiện, truyền tụng, kiểm nghiệm lâu dài, lưu dấu được các giá trị cả về tinh thần lẫn vật chất, một cách uyên áo.
Nhờ vậy mà mặc dù đất nước có hình thể dài và mỏng, lại bị chiến tranh làm cho ngăn cách nhiều lần... nhưng những người dân Việt di cư & di tản vẫn có thể có những hiểu biết quan trọng về quê hương xứ sở của mình, qua những câu Tục Ngữ & Ca Dao, nếu được sưu tầm và hệ thống hóa một cách khoa học.
Điều này vô cùng quan trọng, vì giúp người dân thấm đượm thêm tình tự quê hương.
Bấy nay các nhà nghiên cứu về Tục Ngữ & Ca Dao, chỉ có một số ít thực hiện việc xếp đặt Tục Ngữ & Ca Dao theo một số dàn ý, nhưng khá tổng quát và luộm thuộm, khiến việc giáo dục và tìm hiểu trở nên khó khăn, kém thích thú.
Vì vậy, nơi đây chúng tôi xin gợi ý về một số chủ đề, theo chiều hướng giúp việc tìm hiểu, giảng dạy trở nên dễ dàng và hứng thú.
**Quốc Tổ Hùng Vương:
Đây là tín ngưỡng chung của Người Việt, không phân biệt tôn giáo, vì mang tính văn hóa 'uống nước nhớ nguồn' được ai nấy kính ngưỡng.
-'Ai về Phú Thọ cùng ta,
'Vui ngày Giỗ Tổ tháng 3 mùng 10.
'Dù ai đi ngược về xuôi,
'Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng 10 tháng 3.
-'Tháng 3 nô nức Hội Đền,
'Nhớ ngày Giỗ Tổ bốn nghìn năm nay.
'Dạo xem phong cảnh trời mây,
'Lô, Đà, Tam Đảo cùng quay đầu về.
'Khắp nơi con cháu 3 kỳ,
'Kẻ đi cầu phúc, người đi cầu tài.
'Sở cầu như nguyện ai ơi,
'Xin cùng ghi nhớ ngày 10 tháng 3.
-'Đến đây xum họp vui chơi,
'Trước là lễ Tổ, viếng nơi mộ phần.
'Sau là tài tử - giai nhân,
'Hàn huyên gặp gỡ, kẻ gần người xa.
'Gần xa ta cũng một nhà,
'Cùng dòng Hồng Lạc, cùng là Viêm Bang.
'Cầu xin Phú, Qúy, Thọ, Khang,
'Tổ ban Phúc Trạch, bình an mọi nhà.
**Cố đô Thăng Long:
Với một ngàn năm lịch sử, Thăng Long trải qua nhiều triều đại huy hoàng, giúp thăng hoa đạt tới nhiều giá trị về văn hóa, mặc dù đang bị CSVN phá hại qua các kiến trúc tuyên truyền thô bỉ, như kiểu lăng mộ Hồ Chí Minh ở giữa phố phường, các tượng đài thô kệch ca ngợi chế độ một cách vô duyên ở khắp nơi...
-'Rủ nhau chơi khắp Long Thành
'36 phố rành rành chẳng sai:
'Hàng Bồ, hàng Bạc, hàng Gai,
'Hàng Buồm, hàng Thiếc, hàng Hài, hàng Khay.
'Mã Vĩ, hàng Điếu, hàng Giày,
'Hàng Lờ, hàng Cót, hàng Mây, hàng Đàn.
'Phố Mới, Phúc Kiến, hàng Than,
'Hàng Mã, hàng Mắm, hàng Ngang, hàng Đồng.
'Hàng Muối, hàng Nón, Cầu Đông,
'Hàng Hòm, hàng Đậu, hàng Bông, hàng Bè.
'Hàng Thùng, hàng Bát, hàng Tre,
'Hàng Vôi, hàng Giấy, hàng The, hàng Gà.
'Quanh đi đến phố hàng Da,
'Trải xem phường phố, thật là đẹp xinh.
'Phồn hoa thứ nhất Long Thành,
'Phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ.
'Người về nhớ cảnh ngẩn ngơ,
'Bút hoa xin chép thành thơ lưu truyền.
-'Gió đưa cành trúc la đà,
'Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương.
'Tuyệt mù khói tỏa ngàn sương,
'Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.
-'Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ,
'Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn.
'Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn,
'Hỏi ai xây dựng nên non nước này?
**Địa danh Lịch sử:
Ca dao đã phổ biến sâu rộng các địa danh lịch sử, giúp lịch sử trở nên gần gũi thân quen và dễ ghi nhận:
-'Ai về thăm huyện Đông Anh,
'Đến xem phong cảnh Loa Thành Thục Vương.
'Cổ Loa hình ốc khác thường,
'Trải bao năm tháng vẫn còn vết xưa.
-'Sâu nhất là sông Bạch Đằng,
'3 lần giặc đến, 3 lần giặc tan.
'Cao nhất là núi Lam Sơn,
'Có ông Lê Lợi trong ngàn bước ra.
-'Ai lên Biện Thượng, Lam Sơn,
'Nhớ Lê Thái Tổ chặn đường quân Minh.
-'Bần Gie đóm đậu sáng ngời,
'Rạch Gầm soi dấu muôn đời oai danh.
-'Thùng thùng trống đánh, quân sang,
'Chợ Già trước mặt, quân Nam bên đàng.
'Qua Chiêng thì rẽ về Giàng,
'Qua quán Đông Thổ vào làng Đình Hương.
'Anh đi theo chúa Tây Sơn,
'Em về cày cuốc mà thương mẹ già.
-'Trên trời có ông sao Tua,
'Ở làng Minh Giám có vua Ba Vành.
'Phương đông quật lũ hung tinh,
''Làm cho 7 viện tan tành ra tro.
-'Gò Công anh dũng tuyệt vời,
'Ông Trương Công Định một thời đánh Tây.
**Các Chợ:
Chợ là một hình thức kinh tế rất phổ biến tại Việt Nam từ xa xưa, khi có thể chỉ nhỏ nhoi với vài ba quán lá lèo tèo giúp dân trao đổi phẩm vật trong làng. Những nơi thuận tiện giao thông, chợ mới phát triển thành những phố thị sầm uất trên bến dưới thuyền. Tuy nhiên, các ngôi chợ dù lớn hay nhỏ, cũng vẫn trở thành những hình ảnh nên thơ, được ca dao và thi sĩ Đoàn Văn Cừ mô tả rất rộn ràng thân thương.
-'Chợ Đồng Xuân, Hà Nội
'Hà Nội như động tiên sa,
'6 giờ mới hết đèn xa, đèn gần.
'Vui nhất là chợ Đồng Xuân,
'Thứ gì cũng có, xa gần bán mua.
'Giữa chợ có anh hàng Dừa,
'Hàng Cam, hàng Quít, hàng Dưa, hàng Hồng.
'Chẳng tin đứng lại mà trông,
'Hàng Vóc, hàng Nhiễu thong dong lượt là.
'Cổng chợ có cô hàng Hoa,
'Có người đổi bạc chạy ra chạy vào.
'Có người sục tắc bán rao,
'Người bán kẹo kéo, miến xào, bún bung.
'Lại thêm bánh rán, kẹo vừng,
'Phía trước bán chả, sau lưng bán giò.
'Vừa ăn, vừa chuyện nhỏ to,
'Có chú khách bán bánh bò đi rao.
'Ngay nơi cửa mới bước vào,
'Hàng tôm hàng cá lao xao ê hề.
'Thanh nhất là cô hàng Lê,
'Quàng quạc hàng Vịt, te te hàng Gà.
'Nứt nở như cô hàng Na,
'Chua chát hàng Khế, ngọt qua hàng Đường.
'Thơm ngát là cô hàng Nhang,
'Tanh ngắt hàng Cá, giàu sang hàng Vàng.
'Lôi thôi là chị hàng Giang,
'Vừa đan, vừa bán cả sàng lẫn nia.
'Trề môi như cô hàng Thià,
'Hàng bán bát điã có bề thong dong.
'Tươi thắm như cô hàng Hồng,
'Hàng Cam, hàng Quít, Bưởi Bòng thiếu chi.
'Hát xẩm kéo nhị ò e,
'Mỗi hàng mỗi vẻ chẳng hề kém ai
'Còn thêm cắt tóc, ngoáy tai,
'Ngoài hiên chợ còn có người vẽ tranh.
'Khu rau đủ cả húng, hành,
'Trái bầu, trái bí đỏ xanh mượt mà.
'Thịt bò, thịt lợn, thịt gà,
'Cà chua, cà pháo, cả cà dầm tương.
'Có hàng bán lược, bán gương,
'Có hàng bán áo, bán quần đã may.
'Có hàng bán dép, bán giày,
'Góc chợ có chỗ bán đầy đồ chơi.
'Quẩn quanh thấy mỏi chân rồi,
'Ghé hàng bún chả sực mùi khói thơm.
'Ăn một mẹt vẫn thòm thèm,
'Ra về còn muốn ghé thêm nhiều lần.
-'Chợ Đồng Nương, huyện Cẩm Khê
'Chợ Đồng vui lắm, ai ơi!
'6 phiên 1 tháng đủ người gần xa.
'Trước cửa đình, trông ra đường cái,
'Bên dòng sông nước chảy trong veo,
'Thuyền buôn tay lái, tay chèo,
'Người bưng, kẻ gánh, người đeo dập dìu.
'Khách lịch sự, mỹ miều nhiều vô số,
'Kẻ cơ hàn cùng khổ cũng lắm sao!
'Kẻ mua, người bán ồn ào,
'Ai nấy vội vã ra vào, kẻo trưa.
'Mấy người ghé quán ăn quà,
'Bún riêu, bánh đúc, mẹt ra mẹt vào.
'Anh hàng thịt liếc dao cắt thái,
'Đủ thịt mông, thịt mỡ, thịt đùi.
'Cô hàng bán rượu lui cui,
'Giữa các hũ, nậm, bay mùi nếp thơm.
'Có anh hoàn tán cao đơn,
'Miệng quảng cáo thuốc rao luôn một bài.
'Cô hàng gạo than không có lãi,
'Khi người mua mà cả chê bai.
'Hàng tôm hàng cá thật tươi,
'Hàng bát, hàng đĩa, hàng nồi ngổn ngang.
'Rau tươi chiếm hết mấy gian,
'Hoa quả cũng có nhiều hàng khác nhau.
'Cẩn thận là anh bán dầu,
'Cân đong, đo đếm, rót vào lọ chai.
'Hàng mắm, hàng muối mặn mòi,
'Hàng chiếu đem bó từng đôi ra bày.
'Hàng gà, hàng vịt luôn tay,
'Khách mua trả giá dằng dai nhiều lần.
'Quá trưa chợ vắng dần dần,
'Mấy người quét chợ âm thầm với nhau..
-'Xứ Nam nhất chợ Bằng Gồi,
'Xứ Bắc Văn Khán, xứ Đoài Hương Canh.
-'Ai lên Đồng Tỉnh, Huê Cầu,
'Đồng Tỉnh bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm.
'Cô kia đi chợ Thanh Lâm,
'Mua anh một áo vải thâm hạt dền.
-'Bồng con, đem đặt vào nôi,
'Để mẹ đi chợ, mua vôi ăn trầu.
'Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu,
'Mua cau Bát Nhị, mua trầu Hội An.
-'Ai về chợ Vạn thì về,
'Chợ Vạn có nghề cất rượu, nuôi heo.
**Về các nơi ăn:
Vấn đề ẩm thực, từ xa xưa người Việt đã biết nấu các món ăn một cách ngon và lành, với rất nhiều sáng tạo. Một số nơi có các thức ăn ngon, thường được tục ngữ & ca dao ghi nhận, nhắc nhở cho mọi người biết để cùng tôn vinh và thưởng thức. Nói đến việc ăn uống, chúng ta không thể không mường tượng đến những bàn tay của Tiên Việt bao đời, biến hóa những hạt gạo nhỏ bé thành những món xôi, món bánh, món bún thơm ngon tuyệt vời, được ca dao truyền tụng ghi công ơn:
-'Dưa La, húng Láng,
'Nem Báng, tương Bần
'Nước mắm Vạn Vân,
'Cá rô Đầm Sét.
-'Bánh tráng Mỹ Lồng,
'Bánh phồng Sơn Đốc.
-'Yến sào Vĩnh Sơn,
'Nam sâm Pô Trạch,
'Cua gạch Quảng Khê,
'Sò nghêu Quán Hà,
'Rượu tăm Thuận Lý.
-'Ốc gạo Thanh Hà,
'Mật rú Bát Phường,
'Măng cày Huyện Do,
'Gầm ghì Chợ Huyện,
'Rượu thơm Hà Trung,
'Mắm ruốc Cửa Tùng,
'Mắm nêm chợ Sãi.
-'Nem chả Hòa Vang,
'Bánh tổ Hội An,
'Khoai lang Trà Kiệu,
'Thơm rượu Tam Kỳ.
-'Chim mía Xuân Phổ,
'Cá bống Sơn Trà,
'Kẹo gương Thủ Xà,
'Mạch nha Thi Phố.
-'Yến sào Hòn Nội,
'Vịt lội Ninh Hòa,
'Tôm hùm Bình Ba,
'Nai khô Diên Khánh.
-'Ăn ốc thì đến làng Nga,
'Ăn rồi cứ ngỡ thịt gà nấu đông.
-'Ăn miếng thịt mỡ Đồng Rồi,
'Ăn xong phải ngồi lưng dựa vào lưng.
-Trót ăn xôi gấc làng Chằm,
'Ăn rồi thì nằm, để nhớ đến nhau.
-'Ăn chè bà cốt Đống Cầu,
'Nôn nao trong dạ, xa đâu cũng về.
-'Thạch Tổ có món rượu tăm,
'Vừa nhắp vừa nằm, kẻo ngã quay lơ.
-'Biên Hòa có bưởi Thanh Trà,
'Thủ Đức nem nướng, thịt gà Tây Ninh.
-'Ba phen quạ nói với diều,
'Cù lao Ông Chưởng có nhiều cá tôm.
-'Muốn ăn bông súng mắm kho,
'Thì vô Đồng Tháp ăn cho đã thèm.
-'Muốn ăn cơm trắng canh cần,
'Thì về Đồng Lãng đan giần với anh.
-'Gắng công kén hộ cốm Vòng,
'Kén hồng Bạch Hạc cho lòng ai vui.
-'Ra đi nhớ cháo làng Ghề,
'Nhớ cơm phố Miá, nhớ chè Đông Viên.
-'Hồ Tĩnh Tâm nhiều sen bạch diệp,
'Đất Hương Cần ngọt quít, thơm cam.
-Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh,
'Nước Tháp Mười lóng lánh cá tôm.
-'Bánh dày nhất hạng Liễu Đôi,
'Xẻ ra nửa cái thì ngồi năm mâm.
'Ăn rồi no lóc, no lăn,
'Chép miệng tiếc rẻ, sang năm lại về.
-'Hỡi cô thắt dải lưng xanh,
'Có về An Phú với anh thì về.
'An Phú có ruộng bốn bề,
'Có ao tắm mát, có nghề kẹo nha.
-'Đi đâu mà chẳng biết ta,
'Ta ở kẻ Láng, vốn nhà trồng rau.
'Rau thơm, rau húng, rau mùi,
'Thì là, cải cúc, đủ mùi hành hoa.
'Mồng tơi, mướp đắng, ớt, cà,
'Bí đao, đậu ván... vốn nhà trồng nên.
-'Chợ Nghè có món bún riêu,
'Bún cua, bún ốc, bún tiêu, bún gà.
'Sợi bún màu trắng như ngà,
'Riêu cua đầy gạch đổ xòa lên trên.
'Ăn hết năm bát liền liền,
'Vừa ăn vừa nhẩm: thiếu tiền rồi đây.
'Ăn rồi nhìn lên núi Mây,
'Thấy cả ngọn núi hây hây ửng hồng.
'Ăn rồi nhìn lên núi Chồng,
'Thấy núi như thể mâm bồng xum xuê.
'Ăn rồi nhìn lên núi Mê,
'Thấy núi như phủ tóc thề thướt tha.
'Ăn rồi nhìn núi con gà,
'Thấy lông, thấy cánh mượt mà tốt tươi.
-'Đi thì nhớ quán Ba Hàng,
'Về thì nhớ làng đô vật Liễu Đôi.
'Nhớ tay em đơm điã xôi,
'Cái điã xôi gấc đầy cời chăn chăn.
'Xôi đậu, xôi củ đầy mâm,
'Xôi gà sống thiến mỡ màng thật tươi.
'Xôi trứng vàng ưởi vàng ươi,
'Một người nâng điã, mười người muốn ăn.
'Lại có thứ xôi nếp rằn,
'Ăn với đậu phụ đêm nằm tương tư.
'Lại còn xôi nếp củ từ,
'Chấm với mật, ăn sướng như non bồng.
'Xôi nấu với gạch cua đồng,
'Vừa bùi, vừa béo, thật không quên nào.
'Xôi nấu với quả anh đào,
'Thơm ngon tuyệt hảo, ăn vào mê tơi.
'Xôi đậu ván rởi rời rời,
'Ăn hết điã trước, lại mời điã sau.
'Xôi hồng óng ánh sắc màu,
'Càng ăn càng ngậy, ngon đâu cho bằng.
'Xôi cốm từng hạt lăn tăn,
'Nhón tay từng nhúm, nhai ăn thơm bùi.
'Lại còn xôi nấu cá trôi,
'Ăn vào ngầy ngậy miệng môi máy đều.
'Còn xôi nếp dự đỗ điều,
'Ăn bao nhiêu, thêm bấy nhiêu thèm thuồng.
**Về các nơi chốn nổi tiếng:
Những nơi 'địa linh' khí thế tốt hoặc cảnh đẹp, phong tục tập quán khác lạ... được ca dao ghi nhận phổ biến, giúp ai nấy biết mà tìm đến thưởng ngoạn, hiểu rõ khi có dịp tới nơi:
-'Chẳng thanh cũng thể hoa mai,
'Chẳng lịch cũng thể con người Tràng An.
-'Gió đưa cành trúc la đà.
'Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.
-'Chẳng vui cũng thể hội Thầy,
'Chẳng trong cũng thể Hồ Tây xứ Đoài.
-'Dù ai xấu xí như ma,
'Tắm nước Đồng Lẫm cũng ra con người.
-'Bắc Cạn có suối đãi vàng,
'Có hồ Ba Bể, có nàng áo xanh.
-'Đất Việt bể bạc, non vàng,
'Bể bạc Nam Hải, non vàng Bồng Miêu.
-'Nhất cao là núi Tản Viên,
'Nhất sâu là vũng Thủy Tiên cửa Vường.
-'Núi Đọi ai đắp nên cao,
'Ngã ba sông Gối ai đào nên sâu?
-'Đèo nào cao bằng đèo Cây Cốc?
'Dốc nào dốc bằng dốc Mỹ Cang?
-'Đông Ba, Gia Hội hai cầu,
'Có chùa Diệu Đế bốn lầu hai chuông.
-'Xứ Cần Thơ nam thanh nữ tú,
'Xứ Rạch Giá vượn hú, chim kêu.
-'Đường vô xứ Nghệ quanh quanh,
'Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
'Ai vô xứ Nghệ thì vô.
-'Người đẹp như tiên,
'Tắm nước Đồng Triền cũng xấu như ma.
'Người xấu như ma,
'Tắm nước Đồng Trà cũng đẹp như tiên.
-'Đường lên xứ Lạng bao xa,
'Cách một trái núi với ba quãng đồng.
'Ai ơi, đứng lại mà trông,
'Kìa núi thành Lạng, kìa sông Tam Cờ.
-'Đi bộ thì khiếp Hải Vân,
'Đi thuyền thì khiếp Sóng Thần, Hang Dơi.
'Yêu nhau cho thịt, cho xôi,
'Ghét nhau đưa đến Kim Bôi, Hạ Bì.
-'Núi Ngự Bình trước tròn, sau méo,
'Sông An Cựu nắng đục, mưa trong.
'Em đây vốn thực chưa chồng,
'Núi cao, sông rộng, biết gửi lòng cùng ai?
-'Ai lên nhắn chị hàng Bông,
'Có muốn lấy chồng thì xuống Nguyệt Viên.
'Nguyệt Viên lắm thóc nhiều tiền,
'Có sông tắm mát, có thuyền rong chơi.
'Chiều chiều có chợ cá tươi,
'Chẳng ăn cũng thiệt, chẳng chơi cũng hoài.
-'Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa,
'Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh.
'Ai lên xứ Lạng cùng anh,
'Tiếc công bác mẹ sinh thành ra em.
'Tay cầm bầu rượu nắm nem,
'Mảng vui quên hết lời em dặn dò.
'Gánh vàng đi đổ sông Ngô,
'Đêm nằm tơ tưởng đi mò sông Thương.
Nhận Định
Chỉ vài câu ngắn gọn, ca dao đã có thể gợi ra rất nhiều hình ảnh đầy ý tình về nhiều nơi với nhiều thứ phẩm vật khác nhau trong nước, khiến chẳng cần ra đi ngoài hoặc ở xa, cũng hay biết chuyện thiên hạ tỏ tường.
Đây chính là một phương pháp giáo dục kiến thức đạt tới tầm cao nghệ thuật, khi có thể kết hợp với thơ lục bát nhiều vần qua các làn điệu ru ca ngân nga, dễ đi vào tâm thức mọi người.
Những câu ca dao trên cho thấy đất nước Việt Nam giầu đẹp cả về đời sống tinh thần lẫn đời sống vật chất, nơi nào cũng có thể là chốn dừng chân của khách lãng du, vừa du lịch bằng mắt và du lịch bằng miệng, khi thắng cảnh luôn kèm theo những vật thực đặc sản ngon lành của thiên nhiên, được các Tiên Nữ địa phương 'khéo tay - hay làm' sáng tạo.
Nếu Nho Giáo Trung Hoa đối xử bất bình đẳng với phái nữ, qua các chủ trương Tam Tòng - Tứ Đức, bắt phụ nữ qúy tộc phải bó chân cắm cung; Hồi Giáo sợ sức mạnh quyến rũ của phụ nữ, bắt phải che mạng, trùm khăn; Thiên Chúa Giáo đi từ việc coi phụ nữ là kẻ phá hoại qua hình ảnh bà Eve đạp đổ thiên đường đưa ông Adam xuống cõi trần ai, chỉ đến khi khó khăn trong truyền giáo, mới phải đề cao nữ thần qua hình ảnh Đức Mẹ Maria - nhưng đến nay vẫn không cho nữ giới làm linh mục; Phật Giáo bắt người tu hành không được lấy vợ... thì Người Việt từ xa xưa đã có quan niệm bình đẳng Nam - Nữ rất mực, qua việc Lạc Long Quân cùng Âu Cơ chung lo việc nước, chia đôi con cái đi mở mang đất nước các nơi từ rừng xuống biển, khi nào cần giúp đỡ lại trở về giúp nhau.
Sự bình đẳng Nam - Nữ này được giáo dục một cách nghệ thuật, phổ biến qua phương tiện truyền khẩu của các cổ tích, ca dao, tục ngữ, câu đố.
Ở đây chúng ta cần phân biệt, hầu có thể loại bỏ những câu ca dao tục ngữ do các kẻ chịu ảnh hưởng tư tưởng ngoại lai làm ra để xâm nhập, làm sai đi ý thức hệ bình đẳng Nam Nữ rất tự nhiên và lành mạnh của Người Việt theo luân lý truyền thống.
Đến cuối Thế kỷ XX, khi vấn đề 'Tình Yêu Nam - Nữ' thoái hóa, bị hạ thấp xuống mức độ 'Tình Dục', thì một số nước Âu Mỹ tân tiến nhất mới vội vàng đưa môn Tình Dục học vào chương trình giảng dậy của bậc trung học, với mục đích chỉ mong giúp giới trẻ am hiểu về 'Tình Dục', mà thiếu hẳn các hướng dẫn trong sáng về 'Tình Yêu', một cách rất tai hại.
Trong khi đó, Người Việt tỏ ra ưu việt hơn khi từ mấy ngàn năm trước, đã thực hiện việc giáo dục từ Tình Yêu tới Tình Dục một cách hữu hiệu và nghệ thuật; khiến người học mà không biết mình đã được dạy dỗ truyền đạt từ lúc nào không hay.
Nếu Tình Yêu được chỉ dẫn từ cách tỏ tình, tự tình đến cách chung sống bằng những câu ca dao tình tứ bóng bẩy thanh cao, thì Tình Dục lại được chỉ dẫn một cách kín đáo nhưng chứa chan tình ý qua các câu đố, đòi hỏi phải đến một lứa tuổi nào đó mới có thể am hiểu dần dần, rồi áp dụng.
Nghệ thuật tỏ tình của Phái Nữ
Nông nghiệp khiến Phái Nữ phải cùng Phái Nam phân công, chung sức trong việc canh tác ngoài đồng ruộng.
Bầu không khí trong lành giữa thiên nhiên xanh tươi của các cánh đồng bát ngát, lúc hình ảnh các nơi thờ phượng và gia đình bị khỏa lấp sau các lũy tre xanh xa xa, ai nấy không còn bị kiềm tỏa bởi bất cứ thứ gì từ vật chất đến tinh thần, tuổi dậy thì của nữ giới đã phát triển bộc lộ hồn nhiên qua những câu hát tình tứ một cách chủ động, nhưng trong sáng. Tùy từng hoàn cảnh cá nhân và ưa hay không ưa, các cô gái có thể chọn những câu thích hợp bày tỏ tâm tình, bằng những hình ảnh gợi cảm:
**Khi dịu dàng dễ thương:
-'Có trầu mà chẳng có cau,
'Làm sao cho đỏ môi nhau thì làm,
-'Em như cây quế giưã rừng,
'Thơm tho ai biết, ngát lừng ai hay!
-'Gặp anh, em mỉm miệng cười,
'Vắng anh, em lại giọt vơi giọt đầy!
-'Thương chàng lắm lắm, nhiều nhiều,
'Còn chàng thương lại bao nhiêu mặc lòng.
-'Thân em như miếng cau khô,
'Người thanh ưa mỏng, kẻ thô tham dày.
-'Thân em như đóa hoa rơi,
'Phải chăng chàng thật là người yêu hoa?
-'Thân em như giếng giữa đàng,
'Người khôn rửa mặt, kẻ phàm rửa chân!
-'Thân em như thể trái chanh,
'Lắt lẻo trên cành, lắm kẻ ước ao.
-'Thân em như thể bèo trôi,
'Sóng dập, gió vùi, biết tấp vào đâu?!
-'Thân em như cây nhang trầm,
'Không cha, không mẹ, trăm phần cậy anh.
-'Thân em như cá dưới ao,
'Năm nơm, bảy vó, biết vào tay ai?!
-'Núi cao chi lắm núi ơi!
'Núi che mặt trời, chẳng thấy người thương!
-'Qua đình ngả nón trông đình,
'Đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu.
-'Qua cầu ngả nón trông cầu,
'Cầu bao nhiêu nhịp, dạ sầu bấy nhiêu.
-'Ước gì sông rộng một gang,
'Bắc cầu giải yếm cho chàng sang chơi.
-'Yêu nhau cởi áo cho nhau,
'Về nhà mẹ hỏi, qua cầu gió bay.
-'Thương chi thương dại, thương ngây,
'Thương cá dưới biển, thương mây trên trời?!
-'Thân em như củ ấu gai,
'Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen.
'Ai ơi, nếm thử mà xem,
'Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi.
-'Thân em như tấm lụa đào,
'Phất phơ trước gió biết vào tay ai?
'Em ngồi bên trúc, em tựa bên mai,
'Đông đào, Tây liễu... biết ai bạn cùng?
-'Em như cây mọc núi cao,
'Cây cành chưa để dây nào từng leo.
'Dù cho giông núi, đá đèo,
'Cành non chưa uốn mình theo ngọn nào.
-'Đói lòng ăn nửa trái sim,
'Uống lưng chén nước đi tìm người thương.
'Người thương ơi, hỡi người thương,
'Đi đâu mà để buồng hương lạnh lùng?
-'Đêm qua mưa bụi gió bay,
'Gió rung cành bạc, gió lay cành vàng.
'Em với anh cùng tổng, khác làng,
'Làm sao biết ngõ nhà chàng ở đâu?
'Một thương, hai nhớ, ba sầu,
'Ăn cơm chẳng được, ăn trầu cầm hơi!
'Thương chàng lắm lắm chàng ơi,
'Biết đâu thanh vắng mà ngồi thở than?
'Muốn than mà chẳng được than,
'Kìa như lá đổ muôn ngàn rừng cây.
'Lá đổ còn có khi đầy,
'Thương chàng biết thuở nào khuây, hỡi chàng?!
-'Người về khuất nẻo đã xa,
'Ta còn đứng giữa ngã ba chưa về.
'Nhìn trăng lại nhớ câu thề,
'Nhìn gương mà tưởng ngồi kề bên ai!
'Người về trúc có nhớ mai?
'Người về thoang thoảng hương nhài còn đây.
'Gặp nhau không sợi, không dây,
'Mà sao như buộc lòng này, người ơi?
'Người về ta nhớ câu mời,
'Nhớ tiếng người hát, nhớ lời người trao.
'Người về để lại trăng sao,
'Để lòng khắc khoải, khi nào mới nguôi?
'Người về đường ấy xa xôi,
'Biết ai gửi gấm những lời thiết tha?
'Bao giờ nên cửa, nên nhà?
'Nên chồng, nên vợ, mặn mà lứa đôi?
-'Ngày ngày em đứng, em trông,
'Trông non non ngất, trông sông sông dài.
'Trông mây mây kéo ngang trời,
'Trông trăng trăng khuyết, trông người người xa!
-'Nhớ ai, em những khóc thầm,
'Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa.
'Nhớ ai ra ngẩn, vào ngơ,
'Nhớ ai ai nhớ? Bây giờ nhớ ai?
'Nhớ ai bổi hổi, bồi hồi,
'Như đứng đống lửa, như ngồi đống than!
-'Đêm qua nằm ngủ sập vàng,
'Trông xuống sập bạc, thấy chàng nằm không.
'Vội vàng cởi áo đắp chung,
'Tỉnh ra em thấy nằm không một mình!
-'Anh đà có vợ con chưa?
'Mà anh ăn nói gió đưa ngọt ngào.
'Mẹ già anh ở nơi nao?
'Để em tìm vào hầu hạ thay anh.
**Khi đanh đá chua ngoa:
-'Đấy còn không, đây cũng còn không,
'Đấy kén vợ đẹp, đây trông chồng giàu.
-'Gái này chẳng phải hiền đâu,
'Gái vỗ vai bà Nguyệt, gái câu ông Tơ Hồng.
'Gái này vượt biển kiếm chồng,
'Lật núi tìm bạn, băng đồng tìm con.
-'Thuyền quyên phải sánh anh hào,
'Phượng hoàng đâu sánh thấp cao với diều.
'Kiểng kia đâu để bìm leo,
'Gái khôn đâu gá nghiã theo người đần?
-'Bao giờ cho chuối có cành,
'Cho sung có nụ, cho hành nở hoa.
'Bao giờ chạch đẻ ngọn đa,
'Sáo đẻ dưới nước, thì ta lấy mình.
'Bao giờ cây cải làm đình,
'Gỗ lim thái ghém thì mình lấy ta.
Nghệ thuật tỏ tình của Phái Nam
Đàn ông con trai Việt Nam thường tỏ ra tế nhị và tài hoa rất mực khi tỏ tình, nên dễ làm các cô gái nhẹ dạ xiêu lòng. Qua ca dao, chúng ta thấy các chàng trai quê bày tỏ tâm tình rất ý nhị.
-'Bao giờ cho gạo bén sàng,
'Cho trăng bén gió, cho nàng bén anh?
-'Đường xa thì thật là xa,
'Mượn mình làm mối cho ta một người.
'Một người mười tám đôi mươi,
'Một người vừa đẹp vừa tươi như mình.
-'Trên trời có đám mây xanh,
'Ở giữa mây trắng, xung quanh mây vàng.
'Ước gì anh lấy được nàng,
'Để anh mua gạch Bát Tràng về xây.
'Xây dọc, rồi lại xây ngang,
'Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.
'Có rửa thì rửa chân tay,
'Chớ rửa lông mày chết cá ao anh.
-'Cô kia cắt cỏ một mình,
'Cho anh cắt với, chung tình làm đôi.
'Cô còn cắt nữa hay thôi?
'Cho anh cắt với, làm đôi vợ chồng?
-'Cô kia má đỏ hồng hồng,
'Cô chưa lấy chồng, còn đợi chờ ai?
'Buồng không lần nữa hôm mai,
'Đầu xanh mấy chốc da mồi, tóc sương.
-'Nước sông đào vừa trong vừa chảy,
'Anh đi kén vợ đã mấy năm nay.
'Tình cờ bắt gặp nàng đây,
'Như cá gặp nước, như mây gặp rồng.
'Mây gặp rồng phát phong, phát vũ,
'Cá gặp nước con ngược con xuôi,
'Gặp nàng, mừng lắm nàng ơi,
'Như kim gặp chỉ, một đời bên nhau.
-'Ai đi đâu đấy hỡi ai?
'Hay là trúc đã nhớ mai đi tìm?
'Tìm em như thể tìm chim,
'Chim bay bể bắc, anh tìm bể đông.
-'Mình về có nhớ ta chăng?
'Ta về ta nhớ hàm răng mình cười.
'Năm quan mua lấy miệng cười,
'Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen.
'Răng đen ai nhuộm cho mình?
'Cho răng mình đẹp, cho tình anh mê.
Nam Nữ đối đáp tìm hiểu nhau
Sau những lời tỏ tình, nam nữ nơi nông thôn Việt Nam thường đặt ra những câu hỏi, từ hiền hòa đến không hiền hòa, lắm khi chua ngoa cắc cớ để thử tâm trí nhau, chẳng khác gì một cuộc thi vấn đáp rất khó khăn, khiến chỉ những ai thuộc nhiều bài bản - tức có một vốn kiến thức thể hiện tâm trí cao, mới có thể lọt vào mắt xanh:
-'Bây giờ mận mới hỏi đào,
'Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?
'-Mận hỏi thì đào xin thưa:
'Vườn hồng đã có, nhưng chưa ai vào.
-'Thấy em đẹp đẽ muốn gần,
'Hình dung yểu điệu, sợ rằng có đôi?
'-Anh đừng nghĩ vậy anh ơi,
'Hình dung yểu điệu có đôi bao giờ?
-'Cau già quá lứa bán buôn,
'Em già quá lứa, có buồn không em?
'-Cau già quá lứa bổ phơi,
'Em dù quá lứa, có nơi mong chờ.
-'Hỏi anh, anh nói học trò,
'Sao em lại thấy anh cưỡi bò hôm qua?
'-Em ơi, bò ấy bò nhà,
'Đứa ở đi vắng, anh ra thăm đồng.
'-Anh về chẻ lạt bó tro,
'Rán sành ra mỡ, em cho làm chồng.
'-Em về gọt đá nấu canh,
'Thì anh bắc chảo rán sành được ngay.
-'Cô kia có tội gì không?
'Mà sao cô phải chổng mông lên trời?
'-Thưa anh, em chẳng tội chi,
'Em mà chẳng chổng, lấy gì anh sơi?!
-'Nực cười mấy anh thợ may,
Nhận hàng móc đó, biết ngày nào xong?
-'Lụa chưa may, anh còn để đó,
'Chừ anh xin nói nhỏ cô ba:
'Cô ưng lưng hẹp, rộng tà?
'Hãy ướm thử, rồi cởi ra anh mần.
-'Anh đố Em:
'Cái gì thấp? Cái gì cao?
'Cái gì sáng tỏ hơn sao trên trời?
'Cái gì em trải anh ngồi?
'Cái gì thơ thẩn ra chơi vườn đào?
'Cái gì mà sắc hơn dao?
'Cái gì phơn phớt lòng đào, bảo anh?
'Cái gì trong trắng, ngoài xanh?
'Cái gì soi tỏ mặt anh, mặt nàng?
'Cái gì xanh, đỏ, trắng, vàng?
'Cái gì ăn phải, dạ càng tương tư?
'Cái gì năm đợi, tháng chờ?
'Cái gì em đội phất phơ trên đầu?
'Cái gì sắc hơn dao cau?
'Cái gì tiện chũm cho nhau ăn cùng?
'Một quan là mấy trăm đồng?
'Một mối tơ hồng là mấy trăm dây?
'Một cây là mấy trăm cành?
'Một cành là mấy trăm hoa?
'Em hãy giảng giải cho ra,
'Thì anh kết nghiã giao hòa với em.
-'Em thưa rằng:
'Dưới đất thấp, trên trời cao,
'Ngọn đèn sáng tỏ hơn sao trên trời.
'Chiếu hoa em trải, anh ngồi,
'Đêm nằm tơ tưởng ra chơi vườn đào.
'Con mắt em sắc hơn dao,
'Trứng gà phơn phớt lòng đào, thưa anh.
'Tre non trong trắng, ngoài xanh,
'Gương kia soi tỏ mặt anh, mặt nàng.
'Chỉ ngũ sắc xanh đỏ tím vàng,
'Bùa yêu ăn phải, dạ càng tương tư.
'Đôi ta năm đợi, tháng chờ,
'Cái khăn em quấn phất phơ trên đầu.
'Mắt liếc sắc hơn dao cau,
'Cau non tiện chũm trao nhau ăn cùng.
'Một quan là sáu trăm đồng,
'Một mối tơ hồng là sáu trăm dây.
'Một cây là sáu trăm cành,
'Một cành là sáu trăm hoa,
'Thưa anh, em đã giải ra,
'Xin anh kết nghiã giao hòa cùng em.
'-Một trăm thứ dầu, dầu nào không ai thắp?
'Một trăm thứ bắp, bắp nào không ai rang?
'Một trăm thứ than, than nào không ai quạt?
'Một trăm thứ bạc, bạc nào bán chẳng ai mua?
'Anh mà đối được, em bốn mùa theo anh.
-'Một trăm thứ dầu, dầu xoa không ai thắp,
'Một trăm thứ bắp, bắp chuối không ai rang,
'Một trăm thứ than, than thân không ai quạt,
'Một trăm thứ bạc, bạc tình bán chẳng ai mua.
'Anh đã đáp được, bốn mùa em theo anh?
Nghệ thuật giáo dục Tâm Sinh Lý
Tới cuối Thế kỷ XX, các nước văn minh Tây phương như Mỹ, Pháp, Anh, Úc... mới bắt đầu biết tầm quan trọng của Tâm Sinh Lý học, đưa môn học này vào giảng dạy tại bậc trung học.
Nhưng qua ca dao, tục ngữ, câu đố, truyện tiếu lâm... người Việt từ xa xưa đã biết giáo dục Tâm Sinh Lý học phổ biến trong dân gian, một cách rất nghệ thuật, nên dễ hiểu dễ nhớ.
Nếu những cuốn sách viết về Tâm Sinh Lý học như Karma Sutra của Ấn Độ, Tố Nữ Kinh của Trung Quốc... do Nam Giới sáng tác, có nội dung chỉ để thỏa mãn tình dục một chiều cho nam giới, nhiều khi khá bệnh hoạn... thì những câu đố, tục ngữ, ca dao, truyện tiếu lâm về Tâm Sinh Lý của Việt Nam có một số đáng kể do Nữ Giới sáng tác, nội dung giúp cả 2 giới Nam Nữ hiểu biết, thực hiện các bài bản đạt khoái cảm một cách bình đẳng.
Những câu đố về tình dục của Việt Nam có tác dụng kích dục đến mức:
'Bà Đội cho đến Bà Cai,
'Bà nào hay đố, l... ngoài váy trong.
Chính nhờ tác động kích dục này mà nữ giới ít bị lãnh cảm, chủ động giúp chồng sinh hoạt sinh lý, sinh năm đẻ bẩy phát triển dân số đông đúc như câu chuyện 'trăm con'.
Điều này rất quan trọng, vì các nhà nghiên cứu về tình dục sau bao tìm hiểu, đã nhận ra 2 vấn đề sinh tử của cuộc sống con người:
1/ Nếu đời sống Tâm Sinh Lý đạt được sự khoái cảm cho cả 2 phiá Nam - Nữ, cuộc sống vợ chồng trong gia đình sẽ gắn bó khăng khít hơn. Thường khởi đầu là Tình Ái, nhờ Tình Dục gắn bó mới thành Tình Nghiã.
2/ Đồng thời một khi có đủ 3 yếu tố Tình Ái + Tình Dục + Tình Nghiã, cũng dễ sinh ra những đứa trẻ thông minh và khỏe mạnh hơn.
Hiểu được 2 điều ích lợi rất quan trọng trên trong việc truyền giống, người Phụ Nữ Việt Nam từ xa xưa đã tìm nhiều cách khác nhau để phổ biến các bài học về Tâm Sinh Lý, giúp Nam Giới hiểu các ước muốn thầm kín về Tâm Sinh Lý của mình, hầu có thể thực hiện bổn phận về Tâm Sinh Lý một cách tinh tế và nghệ thuật hơn.
Nhà hiền triết Hồi Giáo Ahnaf ibn Quas đã có nhận định: 'Nếu bạn muốn phụ nữ thích bạn, hãy thỏa mãn họ về tình dục, và cư xử dịu dàng với họ'.
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương là một phụ nữ đã sáng tác nhiều bài thơ nói về Tâm Sinh Lý một cách bóng bẩy nghệ thuật, nhằm bộc lộ các ước muốn thầm kín riêng mà chung của Nữ Giới, như một số bài thơ sau đây:
'Đánh Cờ
Chàng với thiếp đêm khuya trằn trọc,
'Đét đồn (1) lên đánh cuộc cờ người.
'Hẹn rằng đấu trí (2) mà chơi,
'Cấm ngoại thủy (3) không ai được biết.
'Nào tướng sĩ dàn ra cho hết,
'Để đôi ta quyết liệt một phen.
'Quân thiếp trắng, quân chàng đen,
'Hai quân ấy chơi nhau đà đã lữa.
'Thoạt mới vào, chàng liền nhảy ngựa (4),
'Thiếp vội vàng vén phứa tịnh (5) lên.
'Hai xe hà, chàng gác hai bên,
'Thiếp sợ bí, thiếp liền ghểnh sĩ.
'Chàng lừa thiếp đương khi bất ý,
'Đem tốt đầu dú dí vô cung (6).
'Thiếp đang mắc nước xe lồng,
'Nước pháo đã nổ đùng ra chiếu.
'Chàng bảo chịu, thiếp rằng chửa chịu,
'Thua thì thua, quyết níu lấy con (7).
'Khi vui nước nước non non,
'Khi buồn lại giở bàn son quân ngà (8)
Chú thích:
(1) 'Đét đồn lên' nói lái là 'đốt l... tiên'...
(2) 'Đấu trí' là thử tài trí xem ai hơn thua.
(3) 'Ngoại thủy' là 'nước ngoài', chỉ người ngoài.
(4) Chỉ bước đi của quân Mã, cũng là cử chỉ của nam giới khi bắt đầu yêu.
(5) Chỉ bước đi của quân Tượng, cũng là cử chỉ của nữ giới khi vào cuộc yêu.
(6) Chỉ bước đi của con Tốt khi nhập vào cung riêng của Tướng Sĩ, cũng là hành động cuối của nam nữ khi giao hợp.
(7) 'Con' mang 3 nghiã là con cờ, con cái, và con chim.
(8) Chỉ bàn cờ và quân cờ, ám chỉ cuộc vui vầy về Tâm Sinh Lý của các cặp vợ chồng.
Bài thơ trên có hình thức dùng chữ rất nôm na, có cả lối 'nói lái' thi vị của người bình dân hay dùng để che dấu các ý cho là không được thanh tao. Nội dung mượn ý chơi cờ để tả từng bước của một cuộc giao hoan giữa nam nữ một cách thanh nhã bóng bẩy, không trần tục như trong các sách Karma Sutra hay Tố Nữ Kinh... nên kích thích trí tưởng tượng của người đọc, giúp lời lẽ đậm đà gợi tình, gợi cảm nhiều hơn nữa. Điều này thường thấy rất nhiều trong câu đố.
'Quả Mít
'Thân em như quả mít trên cây,
'Da nó xu xi, múi nó dày.
'Quân tử có thương thì đóng cọc,
'Xin đừng mân mó, nhựa ra tay.
'Kiếp tu hành
'Cái kiếp tu hành nặng đá đeo,
'Vị gì một chút tẻo tèo teo?
'Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc,
'Trái gió cho nên phải lộn lèo.
Với những bài thơ của Nữ sĩ Hồ Xuân Hương thể hiện nhu cầu về tình dục của phái nữ, chúng ta có thêm cơ sở để nghĩ rằng các câu đố hướng dẫn về tâm sinh lý hầu hết do phụ nữ làm ra, vì thể hiện các mong muốn thuộc về phái nữ?
Tuy nhiên, nếu đem một số bài thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương so với các câu đố, tục ngữ, ca dao, truyện tiếu lâm... về Tâm Sinh Lý, sẽ thấy thơ của nữ sĩ chỉ là hình ảnh muôn một mà thôi.
**
Tìm vào câu đố, tục ngữ, ca dao, truyện tiếu lâm... chúng ta sẽ thấy rất nhiều câu do Nữ Giới sáng tác, để bày tỏ ý tình về vấn đề Tâm Sinh Lý của phái nữ một cách kín đáo, nhưng gợi hình - gợi tình - gợi cảm nồng nàn:
**Kinh nghiệm về tình dục:
-Gái phải hơi trai,
'Như thài lài gặp cứt chó.
'Trai phải hơi vợ,
'Như cò bợ gặp trời mưa.
-'Lấy chồng từ thuở mười lăm,
'Chồng chê tôi bé, chẳng nằm cùng tôi.
'Đến năm mười tám, đôi mươi,
'Tôi nằm dưới đất, chồng lôi lên giường.
'Một rằng thương, hai rằng thương,
'Có bốn chân giường gẫy một còn ba.
'Ai về nhắn giúp mẹ cha,
'Chồng tôi nay đã giao hòa cùng tôi.
-'Đang khi bếp tắt cơm sôi,
'Con ngồi khóc đói, chồng đòi tòm tem.
'Bây giờ bếp đã cháy lên,
'Cơm đà sắp chín, tòm tem thì tòm.
-'Đêm bẩy, ngày ba,
'Vào ra chưa kể.
-'Lấy chàng từ thuở mười ba,
'Đến năm mười tám, thiếp đà năm con.
'Ra đường tưởng hãy còn son,
'Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng.
-'Chớ nghe quân tử nói òn,
'Mà rồi có lúc ẵm con một mình.
-'Đàn ông tính khí hoang đàng,
'Đàn bà, con gái giữ giàng nết na.
'Phòng khi nó bỏ tay ra,
Nín đi thì dại, nói ra mang điều.
-'Sông Mơ, sông Mận, sông Đào,
'Ba con sông ấy chảy vào tuần ty.
'Trót yêu anh, nay bụng phát phì,
'Thuốc thang đâu khỏi, anh thì bảo tôi.
'Trót yêu anh dễ đứng, khó ngồi!
**Thẳng thắn bày tỏ ham muốn:
'-Gió nam thổi tốc yếm đào,
'Sao anh thấy oản, không vào thắp nhang?
-'Thương ai cho bằng thương con,
'Nhớ ai bằng nỗi gái son nhớ chồng.
-'Đêm qua ngỏ cửa chờ chồng,
'Đêm nay cửa ngỏ, gió đông lọt vào.
-'Dốc bồ thương kẻ ăn đong,
'Vắng chồng thương kẻ nằm không một mình.
-'Của chua ai thấy chẳng thèm?
'Em cho chị mượn chồng em vài ngày.
'-Chồng em nào phải trâu cày,
'Mà cho chị mượn cả ngày lẫn đêm.
-'Đêm qua anh nằm nhà ngoài,
'Để em thở ngắn, than dài nhà trong.
'Ước gì anh được vô phòng,
'Loan ôm lấy phượng, phượng bồng lấy loan.
**Nhận xét về Nam giới:
-'Ban ngày quan lớn như thần,
'Ban đêm quan lớn tần mần như ma.
'Ban ngày quan lớn như cha,
'Ban đêm quan lớn rầy rà như con.
-'Em như cục cứt trôi sông,
'Anh như con chó chạy lồng trên đê.
-'Thà rằng nó nhỏ mà dài,
'Còn hơn nó ngắn, nửa ngoài nửa trong.
-'Dao đâm vào thịt thì đau,
'Thịt đâm vào thịt, nhớ nhau suốt đời.
-'Tham giàu mà lấy thằng Ngô,
'Đêm đêm như bị cành khô chọc vào!
-'Mẹ ơi, con lấy thợ bào,
'Còng lưng anh đẩy, cái nào cũng sâu!
-'Mẹ ơi, con lấy thợ kèn,
'Đêm nằm anh thổi, tắt đèn tối thui.
-'Mù u ba lá mù u,
'Vợ chồng cãi lộn, con cu giải hòa.
**Các chỉ dẫn cho Nam giới:
Bằng nghệ thuật ẩn dụ rất cao, Nữ Giới Bình Dân Việt Nam đã dùng các câu đố gợi hình về các vật dụng hàng ngày họ thường sử dụng, để gợi ra những cảm nghĩ về Tâm Sinh Lý, thể hiện sự đa tình một cách trí tuệ:
-'Canh một thì trải chiếu ra,
'Canh hai bóp vú, canh ba rờ l...
'Canh tư thì lắc xom xom,
'Canh năm cuốn chiếu, ẵm con mà về.
(Câu đố về người đi cất vó cá ban đêm)
-'Anh ngồi, em cũng ngồi chầu,
'Yêu em, anh mớm quết trầu cho em.
(Câu đố về cái ống nhổ)
-'Bì bà bì bạch, trắng bạch như cò,
'Ôm lưng, bóp vú, kéo co lên giường.
(Câu đố về làm bánh dày)
-'Của tôi, tôi để đầu hè,
'Xăm xăm anh đến, anh đè tôi ra.
'Nói ra thì mất lòng người,
'Không nói ướt hết của tôi thế này!
(Câu đố về hòn đá mài dao)
-'Chấm chấm, mút mút, đút vào lỗ trôn,
'Hai cái lông l... cái dài, cái ngắn.
(Câu đố về luồn chỉ qua lỗ kim)
-'Hai tay bưng lấy khư khư,
'Bụng thì bảo dạ rằng ư đút vào.
'Đút vào nó sướng làm sao,
'Rập lên, rập xuống, nó trào nước ra.
(Câu đố về người ăn mía)
-'Lưng tròn vành vạnh, đít bảnh bao,
'Mân mân, mó mó, đút ngay vào.
'Thủy hỏa tương giao, sôi sùng sục,
'Âm dương nhị khí sướng làm sao.
(Câu đố về người hút thuốc lào)
-'Thoạt đầu thì vén váy lên,
'Cái dưới mấp máy, cái trên gật gù.
(Câu đố về dệt cửi)
-'Trên da, dưới cũng là da,
'Đút vào thì ấm, rút ra lạnh lùng.
(Câu đố về người đi giầy da)
-'Xưa kia em trắng như ngà.
'Vì em ngủ lắm, nên đà ra thâm.
'Lúc bẩn chàng đánh, chàng đâm.
'Đến khi em sạch, chàng nằm lên trên.
(Câu đố về cái chiếu cói)
-'Ông nằm dưới, bà nằm trên,
'Ông thò b... lên, bà rên ư ử.
(Câu đố về cái cối xay bột)
...
Nghệ thuật Giáo dục Cuộc Sống Lứa Đôi
Qua các bài ca dao, người Việt đã có những chỉ dẫn khá cụ thể và tỉ mỉ, về những khó khăn trong cuộc sống lứa đôi rất độc đáo, ít thấy trên thế giới. Điều này khá quan trọng, vì giúp chuẩn bị tâm lý tình cảm cho giới trẻ khi sống chung, bớt bỡ ngỡ và thất vọng, sẵn sàng đối phó trước những cam go của cuộc sống mới với người và việc.
**Cảnh báo về người:
-'Chớ nghe quân tử nói òn,
''Mà rồi có lúc ôm con một mình!
-'Mẹ chồng như lông con phượng,
'Bố chồng như tượng mới tô,
'Nàng dâu là bồ nghe chửi!
-'Đói thì ăn khế, ăn sung,
'Trông thấy mẹ chồng, cơm nuốt chẳng trôi!
-'Ví dù con phượng bay qua,
'Mẹ nói con gà, cũng phải nói theo.
-'Cô kia đội nón đi đâu?
'-Tôi là phận gái làm dâu mới về.
'Mẹ chồng ác gớm, ác ghê!
'Tôi ở chẳng được, tôi về nhà tôi!
-'Mẹ anh nghiệt lắm anh ơi!
'Biết rằng có được ở đời với nhau?
'Hay chỉ vào trước, ra sau?
'Cho cực lòng thiếp, cho đau lòng chàng?!
-'Giặc xứ Ngô không bằng Bà Cô bên chồng!
-'Bưng được miệng chĩnh, miệng vò,
'Đã ai bưng được miệng o bên chồng?
-'Kiếm nơi cha thảo, mẹ hiền,
'Gửi thân khuya sớm, bạc tiền không ham.
-'Hạt thóc vàng, hạt lúa vàng,
'Yêu sao bác mẹ họ hàng cũng yêu.
**Cảnh báo về việc:
Do vậy mà có những bài ca dao khuyên người con gái đi lấy chồng bằng những lời lẽ thân thương, rất ngọt ngào về những cái xấu rất đắng cay, thể hiện 'nghệ thuật giáo dục tránh cái xấu' cao siêu, đã giúp bao nhiêu thế hệ phụ nữ Việt không chỉ hiểu rõ để vượt qua, mà còn trở nên người được trọng nể:
-'Con ơi, mẹ bảo con này,
'Học buôn học bán cho tày người ta.
'Con đừng học thói chua ngoa,
'Họ hàng ghét bỏ, người ta chê cười.
'Dù no dù đói cho tươi,
'Khoan ăn, bớt ngủ, liệu bài lo toan.
'Phòng khi đóng góp việc làng,
'Đồng tiền bát gạo lo toan cho chồng.
'Trước là đẹp mặt cho chồng,
'Sau là họ mạc cũng không chê cười.
-'Từ khi em về làm dâu,
'Anh xin dặn bảo, trước sau mọi lời:
'Mẹ già dữ lắm, em ơi!
'Nhịn ăn, nhịn mặc, nhịn lời mẹ cha.
'Nhịn cho êm cửa, êm nhà,
'Nên kèo, nên cột, nên xà tầm vông.
'Nhịn cho nên vợ, nên chồng,
'Nhờ em coi sóc lấy trong cửa nhà.
'Đi chợ thì chớ ăn quà,
'Về chợ thì chớ rề rà ở trưa.
'Dù ai bảo đợi, bảo chờ,
'Thì em nói dối con thơ em về.
-'Thân em mười sáu tuổi đầu,
'Cha mẹ ép gả làm dâu nhà người.
'Nói ra sợ chị em cười,
'Năm ba chuyện thảm, chín mười đắng cay!
'Em về đã mấy năm nay,
'Buồng riêng tuy có, vui vày thì không!
'Ngày thời vất vả ngoài đồng,
'Tối về thời lại nằm không một mình!
'Có đêm thức suốt năm canh,
'Rau heo, cháo chó, loanh quanh đủ trò!
**Cảnh báo về cuộc sống tình cảm:
Với tâm nguyện sống với chồng con vì 'tình nghiã' hơn là 'tình yêu' một cách cao cả, nên người phụ nữ Việt chấp nhận thua thiệt từ chuyện nhỏ đến chuyện to, phái nam cần hiểu rõ để có thể chan hòa trong cuộc sống lứa đôi:
-'Đứa ở xét công,
'Vợ chồng xét nghiã.
-'Đốn cây ai nỡ dứt chồi,
'Đạo chồng, nghiã vợ, giận rồi lại thương.
-'Vợ chồng là nghiã suốt đời,
'Ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt hơn.
-'Vì chồng nên phải gắng công,
'Nào ai xương sắt, da đồng cho cam.
-'Có chồng bớt đi dông dài,
'Bớt chuyện trang điểm, kẻo trai nó lầm.
-'Không thiêng cũng thể Bụt nhà,
'Dù khôn, dù dại, cũng là chồng ta.
Nhận Định
Qua phần trên, chúng ta thấy người Việt Nam đã có một nghệ thuật hướng dẫn về tâm lý lẫn tình cảm rất đặc sắc, nêu cái xấu cho biết để chuẩn bị đương đầu, giúp cuộc sống lứa đôi nam nữ có thể đạt tới sự chung sống lâu dài, dù gặp nhiều khó khăn gai góc.
Vì thông thường giới trẻ rất mộng mơ, chỉ nghĩ đến những điều tốt đẹp về cuộc sống, nên dễ thất vọng khi va chạm phải thực tế phũ phàng, mà chán ghét gây ra đổ vỡ.
Phải chăng nhờ nghệ thuật giáo dục đào tạo này, mà nòi giống Tiên Rồng đã tồn tại và phát triển mạnh mẽ, ngay cả trong hoàn cảnh lịch sử nhiều cam go, đầy rẫy thù trong giặc ngoài mấy ngàn năm qua, khiến cuộc sống gia đình tuy cũng bị ảnh hưởng nhưng không gây ra nhiều đổ vỡ?
Tâm Lý Học là môn học nghiên cứu các phản ứng về Tư tưởng - Tình cảm - Hành động của Con Người đối với Ngoại Vật, bao gồm Thiên - Địa - Nhân, tức Với Trời
- Đất (Vũ Trụ Quan) - và Với Người (Nhân Sinh Quan).
Phát xuất từ quan điểm thế giới hình thành theo 'Tam Tài' bao gồm Thiên - Địa - Nhân có hình ảnh của một Tam Giác Cân Nằm Ngang bình đẳng, nên người Việt có tâm lý coi mình ngang bằng với Trời Đất, để cố gắng tu thân tích đức làm việc nhân nghiã có ích lợi chung, đền đáp công ơn cha mẹ - đồng bào - Tổ Quốc, sao cho xứng đáng với địa vị của Người so với Trời và Đất - thể hiện sự tự trọng, tự tin, tự lực, tự cường... chứ không hề mang ý nghiã tự tôn, hoặc trịch thượng hỗn láo nào.
Chính điều này đã khiến người Việt trong tín ngưỡng Bái Thiên hay Bái Địa, không qụy lụy mà đứng thẳng để thăng hoa, vươn lên giữa Trời Đất - như cây cối, như các hình ảnh sinh hoạt được khắc trên mặt trống đồng, như Phù Đổng vươn vai đứng lên khi có giặc ngoại xâm thời loạn, như An Tiêm tự sinh tự dưỡng nơi hoang đảo thời bình, như các điệu múa dân gian theo chiều thẳng đứng, như khi lên đồng đứng chèo thuyền khoan thai, ung dung tự tại trước ban thờ trong Đạo Thờ Mẫu của người Việt Nam...
Âu Cơ và Lạc Long Quân đã khẳng định điều này ngay từ lúc lập quốc, khi đặt tên và căn dặn con cháu phải lấy chữ 'Hùng' làm niên hiệu, được duy trì suốt 18 đời vua.
Nguyễn Công Trứ đã nói và làm về điều này một cách hào hùng:
'Đã mang tiếng đứng trong Trời - Đất,
'Phải có danh gì với núi sông.
'Trong lúc trần ai, ai dễ biết,
'Rồi ra mới rõ mặt anh hùng.
Ca dao cũng có phát biểu tương tự:
-'Của đời muôn sự của chung,
'Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi.
-'Nên ra tay kiếm tay cờ,
'Chẳng nên thì chớ, chẳng nhờ tay ai.
-'Vàng tâm xuống nước vẫn tươi,
'Anh hùng lâm nạn vẫn cười, vẫn vui.
-'Đấng trượng phu không thù mới đáng,
'Kẻ anh hùng không oán mới hay.
-'Ngựa hay chẳng quản đường dài,
'Nước kiệu mới biết tài trai anh hùng.
Chính tư thế 'anh hùng' được ca dao nhắc nhở ca ngợi, đã tác động vào tâm thức người Việt Nam từ ấu thơ, khiến ai nấy đều mong muốn thực hiện công việc ích quốc & lợi dân, giúp dân & nước tạo được thế đứng bình đẳng trong quan hệ Tam Tài giữa 'Thiên - Địa - Nhân', mong đạt thành quả lớn lao hầu có thể vươn lên cao, để được tôn thờ như các vị thánh thần linh thiêng. Đó cũng là hình ảnh của cây cau đứng ngất ngưởng giữa trời, được ví với đấng trượng phu, được lấy trái bày thờ cúng như một biểu tượng:
-'Mình thì cao lớn trượng phu...
Tưởng cũng nên biết Nguyễn Công Trứ chỉ mong muốn 'công danh', nhưng rất chán ghét 'lợi danh':
-'Không 'công danh' thời nát với cỏ cây.
-'Tang bồng hồ thỉ, nam nhi trái,
'Cái 'công danh' là cái nợ nần.
-'Chen chúc 'lợi danh' đà chán ngắt!
Trong khi lịch sử Trung Quốc cho thấy chỉ có các dũng tướng, dũng sĩ phục vụ như tôi đòi cho các vua chúa hơn là cho quốc gia đại sự, khiến đất nước luôn bị chia năm xẻ bẩy - hết thời Chiến Quốc đến Lục Quốc, Tam Quốc ... Điều này có thể thấy qua câu nói của Tào Tháo với Lưu Bị: 'Trên đời này chỉ có tôi với ông là anh hùng' - nhưng thực tế cả hai đều là thứ 'gian hùng' kiệt xuất?!
Sau này CSVN cũng xưng đủ thứ anh hùng, nhưng sau 1975 mới biết bọn lãnh đạo chỉ là lũ gian hùng, bán nước, làm đôi đòi cho Nga Hoa rất hèn hạ - chỉ dám xưng hùng xưng bá với người dân lành, theo kiểu gian hùng tàn ác lưu manh cực kỳ?!
Do vậy mà chúng ta cần phân biệt các câu tục ngữ & ca dao chính thống, khác với những câu do kẻ vọng ngoại vong bản, mất phẩm chất làm ra, để chống đỡ cho các hành động hèn kém xấu xa bỉ ổi:
Người Việt chân chính không hề:
'Đi với Bụt mặc áo cà sa,
'Đi với Ma mặc áo giấy.
Mà luôn đứng thẳng đối đầu:
-'Gió chiều nào,
'Che chiều đó.
-'Dù ai nói đông nói tây,
'Thì ta vẫn vững như cây giữa rừng.
'Dù ai nói ngả nói nghiêng,
'Thì ta vẫn vững như kiềng ba chân.
**
Nếu các Tôn Giáo và Nhiều Triết Gia xưa nay luôn đưa ra đường lối 'Giáo Dục Một Chiều' - bắt phải tuân thủ một số điều tự cho là tốt nhất, hoàn hảo nhất... thì Người Việt từ xa xưa đã có đường lối 'Giáo Dục Hai Chiều' - khi sớm ý thức được sự tương đối của chân lý và những giới hạn của nhận thức về tốt xấu trong các phạm vi Thời Gian và Không Gian; nên có được chủ trương sống như hoa sen trong bùn 'chung với cái xấu vẫn tốt đẹp - không xấu là tốt'; hầu có hoàn cảnh giúp người & giúp đời vươn lên từ tăm tối khó khăn, như chuyện Lưu Bình & Dương Lễ lần lượt giúp đỡ nhau...
Triết gia Pháp Jean Paul Sartre đã từng có nhận xét thú vị khi cho rằng: 'Bấy nay các tư tưởng gia lớn nhỏ của nhân loại, chẳng khác gì một đứa trẻ cởi truồng mà không biết mắc cở, khi tự tôn chỉ cho mình là đúng nhất'.
Sartre giải thích sở dĩ đứa trẻ cởi truồng không biết mắc cở, vì nó mới chỉ có được cái nhìn ấu trĩ một chiều từ nó đến người khác - chưa có được cái nhìn ngược lại từ người khác vào nó như người trưởng thành.
Do vậy mà Tục ngữ Ca dao Việt từ xưa đã khuyên phải tùy thời mà ứng xử cho phải phép, nhưng vẫn phải xa cái xấu, và giữ sự chính đáng:
-'Cây ngay không sợ chết đứng.
-'Có cứng mới đứng đầu gió.
-'Cây cao chẳng quản gió rung,
'Đê cao chẳng quản nước sông tràn vào.
-'Cây cao thì gió càng lay,
'Càng cao danh vọng, càng dày gian nan.
-'Dù ai nói ngược, nói xuôi,
'Ta đây vẫn giữ đạo trời khăng khăng.
Người Việt không chấp nhận quan điểm của Nho Giáo 'Quân tử hòa nhi bất đồng'. mà theo lời dạy 'Đồng Bào' của Mẹ Âu Cơ. Do vậy câu sau đây không phải là tâm lý chân chính của người Việt, mà là châm biếm lối hành xử không chính đáng của các người bị tha hóa, vong thân - như các tổ chức tôn giáo 'quốc doanh' gần đây - chấp nhận cả việc xu phụ kẻ xấu để tồn tại một cách bất chính, bôi bẩn tôn giáo cao đẹp của mình, đem tôn giáo đánh đu với bọn qủy đỏ:
-'Gần chùa gọi Bụt bằng anh,
'Thấy Bụt hiền lành, cõng Bụt đi chơi!
Nghệ thuật Giáo dục Tâm Lý đối với Trời
Nếu các tôn giáo coi Trời là đấng tối cao siêu đẳng ban phát mọi thứ, không gì có thể sánh được, không bao giờ sai lầm, tôn vinh bằng những từ như Thượng Đế, Chúa Trời... thì Người Việt từ xa xưa thể hiện sự bình đẳng, khi nhân cách hóa đấng tối cao một cách thân mật và coi trọng vừa phải, chỉ tôn Trời bằng vai với 'Ông' - trên Cha mà thôi, khi dạy con trẻ rằng:
-'Con Cóc là cậu ông Trời,
'Ai mà đánh nó, thì Trời đánh cho.
Đôi khi trong cuộc sống thực tế hàng ngày, còn cảm nhận ảnh hưởng của vợ trên cả trời:
-'Nhất vợ, nhì Trời.
Tâm lý Người Việt xa xưa coi Trời bình đẳng trong thế Tam Tài 'Thiên - Địa - Nhân', nên trên mặt Trống Đồng vẽ Người sinh hoạt quanh Mặt Trời một cách tự nhiên, không hề qùy lạy sợ hãi kiểu 'Bái Thiên' hay 'Bái Địa' như nhiều tranh vẽ của các tôn giáo.
Người Trung Quốc sợ Trời tới mức bị các ông vua dối gạt, xưng là Con Trời (Thiên Tử) để mượn oai Trời uy hiếp, bắt tuân phục mọi bề. Khổng Tử đã dựa trên ý đồ xấu xa này, đưa ra các nguyên tắc nô lệ hoá nam nữ vào các ông Trời Con, như Tam Cương & Ngũ Thường với nam giới, Tam Tòng & Tứ Đức với nữ giới. Do vậy mà Trung Quốc chỉ có những dũng tướng và dũng sĩ một lòng tuân phục nhà vua; ít có những bậc 'anh hùng' lo việc giúp dân, giúp nước. Ai vì chính nghiã mà chống lại các ông Con Trời gian ác... đều bị Khổng Tử gọi là 'bá đạo' - thay vì là 'vương đạo' mới đúng.
Trong Đạo Nội thờ Thánh Mẫu, qua hình thức Lên Đồng, người Việt múa hát trước ban thờ, chứ không qùy lậy như sau này lúc chịu ảnh hưởng của các tôn giáo khác.
Với Người Việt xa xưa, 'Ông Trời' có khi đúng nhưng cũng có khi sai:
Khi đúng mới được khen là sáng suốt:
-'Trời có mắt.
Khi sai thì bị chê là đui mù:
-'Trời không có mắt.
Ông Trời được nhân cách hóa, cũng có nhân tính với những tâm lý, tình cảm như một con người, nhưng được tôn là bề trên cầm cân nảy mực, nên phải sáng suốt và có trách nhiệm của kẻ nắm quyền hành:
-'Trời sầu, bể thảm.
-'Trời sinh, Trời dưỡng.
-'Trời đánh, Thánh vật.
-'Trời cho hơn lo làm.
-'Trời chẳng đóng cửa nhà ai.
-'Trời ơi! sinh giặc làm chi?
'Cho chồng tôi phải ra đi chiến trường!
-'Trời nào có phụ ai đâu,
'Hay làm thì giàu, có chí thì nên.
-'Trời làm một trận lăng nhăng,
'Ông hóa ra thằng, thằng hóa ra ông!
-'Trời sao Trời ở chẳng cân?
'Kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra!
-'Trời còn khi nắng, khi mưa,
'Ngày còn khi sớm, khi trưa, nữa người?
-'Trời nắng rồi trời lại mưa,
'Chứng nào tật ấy, có chừa được đâu?
-'Sáng mưa, trưa nắng, chiều nồm,
'Trời còn luân chuyển, huống mồm thế gian.
-'Lạy Trời mưa xuống,
'Lấy nước tôi uống,
'Lấy ruộng tôi cày,
'Lấy bát cơm đầy,
'Lấy khúc cá to.
Nhận Định
Qua một số điều kể trên, chúng ta thấy tâm lý nguyên thủy của người Việt đối với thế giới tâm linh mang tính 'văn hóa' hơn là 'tôn giáo', khi coi Trời - Đất - Thánh - Thần rất gần gũi, không hề xa cách như nhiều dân tộc khác trên thế giới.
Trong tín ngưỡng tôn thờ 'Địa linh & Nhân kiệt' nơi các đình, đền, miếu... cùng lắm chỉ có một ông Từ coi giữ chăm sóc vệ sinh, không hề được rao giảng bất cứ điều gì. Tùy từng việc, người Việt tự khấn vái, hoặc làm các bài văn tế, sớ... đọc rồi đốt, trong ý tưởng gửi trực tiếp... không cần nhờ đến các tu sĩ làm trung gian.
Do vậy mà một số câu tục ngữ, bài ca dao, truyện tiếu lâm, thơ nôm... có nội dung châm biếm chê trách các tu sĩ sai trái rất mạnh mẽ, cũng là điều dễ hiểu?
Trải qua mấy ngàn năm bị đô hộ, bị các tôn giáo nước ngoài xâm nhập, đã khiến không ít người đánh mất bản sắc dân tộc của mình, trở nên yếu hèn mà sợ hãi qụy lụy trước các vị thánh thần - tới mức mê muội coi cả các vị tu sĩ ngang thánh thần... trọng vọng hơn cả cha mẹ; coi tôn giáo hơn cả Quốc tổ Hùng Vương... tạo nên sự phân biệt kỳ thị, gây chia rẽ ác hại.
Cụ thể là từ trong nước ra đến hải ngoại, nơi nào cũng có nhiều chùa và nhà thờ... nhưng chỉ một số ít nơi, mới có Đền Thờ Quốc Tổ mà thôi?!
Đây chính là một trong các nguyên nhân làm suy yếu tinh thần dân tộc, không những gây ra việc mất miền Nam Việt Nam năm 1975, mà còn tác hại cả đến các cộng đồng người Việt tỵ nạn ở hải ngoại sau năm 1975, chưa biết đến bao giờ mới hết; làm cản trở công cuộc thống nhất ý chí, quang phục quê hương.
Vào tháng 3-2010, Hồng y Phạm Minh Mẫn được mời từ Việt Nam qua Mỹ tham dự một thánh lễ tại Cali, nhưng bị sự phản đối công khai của chính một số tín đồ Thiên Chúa Giáo, vì ông đã có những hành động và ngôn ngữ nịnh bợ Việt Cộng.
Đây chính là một hình ảnh mới mẻ, khôi phục ý tình chính đáng của người dân đối với các tu sĩ không xứng đáng, như tục ngữ ca dao ngày xưa từng làm?
Nơi đây chúng ta cũng nên biết, là từ thời Đinh - Lê - Lý - Trần... các vị tu sĩ Việt luôn coi tôn giáo phải song hành với dân tộc, mới có thể tồn tại cùng quốc gia dân tộc, nên đem tài đức ra giúp nước qua việc nhận các địa vị chức vụ trong triều chính. Truyền thống này được tiếp nối đến ngày nay, qua một số vị tu sĩ dấn thân tranh đấu cho sự tự do dân chủ của Quốc Gia & Dân Tộc, như Hòa thượng Quảng Độ, Linh mục Nguyễn Văn Lý... được qúy trọng, coi như các vị anh hùng của dân tộc.
Người Việt có ý thức chân chính không bao giờ có thể chấp nhận quan điểm vì quyền lợi riêng tư của tôn giáo mà về hùa với các nhà cầm quyền bất chính, vô tâm trước những đàn áp bất công. Làm như vậy khác nào tiếp tay với những kẻ gian ác, đầy đọa người dân - trái với các giáo lý nhân ái cao cả của các tôn giáo, như Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Tin Lành Giáo, Hòa Hảo Giáo, Cao Đài Giáo?!
Việc các vị linh mục và tín đồ Thiên Chúa Giáo tại Việt Nam thực hiện các buổi cầu nguyện cho các nhà đấu tranh ôn hòa bị Cộng sản tại Việt Nam bắt giữ bừa bãi hồi tháng 4-2011, khiến nhà cầm quyền phải trả tự do, chứng tỏ sau bao thăng trầm Thiên Chúa Giáo tại Việt Nam đã đứng lên bảo vệ Quốc gia & Dân tộc; không còn hoàn toàn tuân thủ việc Tòa Thánh Vatican bắt tay với bạo quyền, để mong duy trì phát triển tôn giáo trong ươn hèn?!
Nghệ thuật Giáo dục Tâm lý đối với Đất
Trong tín ngưỡng tôn thờ 'Địa - linh & Nhân kiệt' của người Việt nguyên thủy, 'Địa linh' còn được coi trọng hơn cả 'Nhân kiệt' vì Văn hóa Việt Nam có chủ trương 'Uống nươc nhớ nguồn' đối với thiên nhiên, 'ăn quả nhớ kẻ trồng cây' đối với người đi trước.
Nếu nhìn vào bản đồ Việt Nam, sẽ thấy hình ảnh nước Việt Nam rất giống như hình vẽ bát quái đồ, khi bờ biển hình chữ S chia đôi giữa hai yếu tố âm dương là đất liền và biển. Ngoài biển ngay phiá đông bắc có đảo Hải Nam, trong đất ở phiá tây nam có Biển Hồ, rất đúng với vị trí hai điểm âm dương của bát quái đồ, tức trong âm có điểm dương - trong dương có điểm âm.
Hình ảnh này có lẽ đã hun đúc nên một giải sơn hà gấm vóc, dù gặp nhiều biến cố dâu biển, nhưng thủy chung vẫn tồn tại, bởi linh khí của đất trời thịnh suy chuyển dịch theo lẽ hết bĩ cực sẽ thái lai, nên mấy ngàn năm lịch sử đã tái diễn nhiều phen theo chu kỳ 'cùng tắc biến - biến tắc thông'.
Người Việt từ xưa đã tin rằng:
-'Đất có Thổ Công,
'Sông có Hà Bá.
-'Đất có tuần,
'Dân có vận.
-'Non cao ai đắp mà cao,
'Sông sâu ai bới, ai đào mà sâu?
-'Nước non là nước non trời,
'Ai phân được nước, ai dời được non.
Nên quan niệm những nơi có linh khí, sẽ sinh ra các người tài giỏi giúp đất nước:
-'Đất cam thảo,
'Dân lão thần.
-'Đất lành chim đậu.
-'Đất thơm cò đậu.
-'Đất tốt trồng cây rườm rà,
'Những người thanh lịch nói ra qúi quyền.
-'Đất xấu trồng cây khẳng khiu,
'Những người thô tục nói điều phàm phu
Vì vậy mỗi nơi có những tập quán riêng, phù hợp với không gian sinh sống, được tôn trọng:
-'Đất có lề,
'Quê có thói.
-'Phép vua thua lệ làng.
-'Đất chẳng chịu Trời,
'Trời phải chịu Đất.
-'Lệnh làng nào, làng ấy đánh,
'Thánh làng nào, làng ấy thờ.
Đất đối người Việt qua câu chuyện Bánh Dầy & Bánh Chưng, còn là một phẩm vật qúy giá của Trời ban cho, nên phải trân trọng chăm lo gìn giữ, phát triển, không được hoang phí:
-'Tấc đất - Tấc vàng.
-'Ơn Trời mưa nắng phải thì,
'Nơi thì bừa cạn, nơi thì cầy sâu.
'Công lênh chẳng quản bấy lâu,
'Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng.
'Ai ơi! chớ bỏ ruộng hoang,
'Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu.
-'Rủ nhau đi cấy, đi cầy,
'Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu.
'Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
'Chồng cầy, vợ cấy, con trâu đi bừa.
Người Việt coi đất cát nơi mình sinh trưởng là chốn thân quen đáng qúy nhất, vạn bất đắc dĩ mới chịu lìa xa quê cha đất tổ. Khi phải rời xa, lòng đầy quyến luyến:
-'Ra đi ngó trước, ngó sau,
'Ngó nhà mất cột, ngó cau mấy buồng.
Chính nơi sinh trưởng đã hun đúc nên tâm hồn người Việt, qua không gian sinh sống thân thương, thời gian phát triển khôn lớn. Những lời ru giấc trưa êm ả theo điệu võng kẽo kẹt đong đưa trong nhà, những câu hát ngoài đồng lúa bát ngát xanh tươi, những tiếng chim hót, dế rúc, ếch kêu... của các sinh vật lớn bé chung quanh cuộc sống hàng ngày từ thơ ấu... đã giúp hình thành một tâm thức Việt Nam gắn bó với xóm làng nơi thôn quê.
Nhiều bài học được kinh qua các nhận xét từ những con vật lớn nhỏ và cảnh quan từ Đất, trở thành các kiến thức giá trị cho cuộc sống mai hậu:
**Với Động vật:
-'Chó cậy gần nhà,
'Gà cậy gần chuồng.
-'Kiến leo cột sắt sao mòn,
'Tò vò xây tổ, sao tròn mà xây?
-'Con cóc nằm góc bờ ao,
'Lăm le lại muốn đớp sao trên trời.
-'Chuột chù chê khỉ rằng hôi,
'Khỉ mới trả lời: cả họ mày thơm!
-'Chớ thấy áo rách mà cười,
'Những giống gà nòi lông nó lơ thơ.
-'Khôn ngoan đá đáp người ngoài,
'Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.
-'Lươn ngắn lại chê trạch dài,
'Thời bơn méo miệng, chê trai lệch mồm.
-'Nực cười châu chấu đá xe,
'Tưởng rằng chấu ngã, ai dè xe nghiêng.
-'Chim khôn kêu tiếng rảnh rang,
'Người khôn tiếng nói dịu dàng dễ nghe.
Đôi khi còn nói ngược, để tạo các lối nhận thức nhận thức có suy xét:
-'Con kiến mày ở trong nhà,
'Tao đóng cửa lại, mày ra đằng nào?
'Con cá mày ở dưới ao,
'Tao tát nước vào, mày sống được chăng?
**Với Thực vật:
Cây Đa đầu làng thường là hình ảnh biểu tượng của đời sống tinh thần, mang nhiều ý nghiã từ tâm lý đến tình cảm của người Việt đối với làng xóm thân thương:
-'Có quán tình phụ cây đa,
'Ba năm quán đổ, cây đa vẫn còn.
-'Trăm năm dù lỗi hẹn hò,
'Cây đa bến cũ, con đò khác đưa.
-'Không tiền ngồi gốc cây đa,
'Có tiền thì mới lân la quán hàng.
-'Đầu làng có cây đa xanh,
'Có đường cái lớn chạy quanh xóm làng.
-'Ở đời phải biết tương thân,
'Cây đa cậy thần, thần cậy cây đa.
-'Chanh chua anh để giặt quần,
'Người chua anh để làm thần gốc đa.
-'Em đang dệt vải quay tơ,
'Bỗng đâu có khách đưa thư tới nhà.
'Hẹn giờ ra gốc cây đa,
'Phượng hoàng chẳng thấy, thấy gà buồn sao?!
Ngoài ra một số cây cảnh khác cũng được dùng để bày tỏ ý tình:
-Có đỏ mà chẳng có thơm,
'Như hoa dâm bụt, nên cơm cháo gì.
-'Thài lài mọc cạnh bờ sông,
'Tuy rằng xanh tốt, vẫn tông thài lài.
-'Hoa sen mọc bãi cát lầm,
'Tuy rằng lấm láp, vẫn mầm hoa sen.
-'Gừng già, gừng rụi, gừng cay,
'Anh hùng càng cực, càng dày nghiã nhân.
-Bầu ơi thương lấy bí cùng,
'Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
-'Nước còn quấn cát làm doi,
'Thương nhau ta phải tài bồi cho nhau.
-'Lên non mới biết non cao,
'Lội sông mới biết lạch nào cạn sâu.
-'Trên đời gì rẻ bằng bèo,
'Đến khi nước lụt, bèo trèo lên sen.
'Trên đời gì tốt bằng sen,
'Quan yêu, dân chuộng, hái đem về nhà!
Không gian nhiều sông nước của Việt Nam cũng tạo ra lắm ý tình trong tâm hồn người Việt, qua các hình ảnh bến đò, con thuyền:
-'Thuyền dời,
'Bến chẳng dời.
-'Thuyền theo lái,
'Gái theo chồng.
-'Thuyền mạnh về lái,
'Gái mạnh về chồng.
-'Thuyền ơi có nhớ bến chăng?
'Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
-'Thuyền ai lơ lửng bên sông?
'Có lòng đợi khách hay không hỡi thuyền?
'Để ta kết nghiã làm quen,
'Biết đâu lại chẳng nên duyên Tấn Tần?
-'Sông có khúc,
'Người có lúc.
-'Sông sâu chớ lội,
'Đò đầy chớ đi.
-'Sông sâu cá lội lờ đờ,
'Biết em có đợi mà chờ uổng công?
-'Sông sâu cá lặn vào bờ,
'Lấy ai thì lấy, đợi chờ nhau chi?
-'Sông sâu, sào ngắn khó dò,
'Người khôn ít nói, khó đo tấc lòng.
-'Sông sâu cá lội mất tăm,
'Chín tháng cũng đợi, mười năm cũng chờ.
-'Sông sâu nước đục lờ lờ.
'Cắm sào mà đợi bao giờ cho trong?
-'Sông Thương nước chảy đôi dòng,
'Trai quên vợ, gái quên chồng, thì lên.
-'Sông sâu còn có thể đo,
'Lòng người nham hiểm, ai dò cho ra?
-'Sông hồ một dải con con,
'Gặp khi sóng gió chớ non tay chèo.
'Yêu nhau sinh tử cũng liều,
'Thương nhau lội suối, băng đèo có nhau.
Nhận Định
Câu 'Không nơi nào đẹp bằng quê hương' được viết trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư, để giảng dạy từ giữa Thế kỷ XX tại Việt Nam; làm người ta liên tưởng đến Từ Thức từng được sống ở cõi tiên, nhưng là nhân vật thần thoại duy nhất trên thế giới được lên cõi tiên, nhưng vẫn nhớ quê hương trở về với quê hương. Tuy nhiên do về quá trễ mà cảnh cũ người xưa không còn. Ngụ ý này mang thông điệp với những người Việt tỵ nạn ở nước ngoài hiện nay thật vô cùng ý nghiã, khi nếu chúng ta không nhanh chóng trở về quang phục quê hương, đất nước chúng ta sẽ bị bọn Việt Cộng dâng cho quan thầy của chúng là Trung Cộng!
Tháng 12-2011, khi đón tên Phó Chủ tịch Trung Cộng Tập Cận Bình, bọn VC đã thêm vào lá cờ Trung Cộng 1 ngôi sao nhỏ, thể hiện ý đồ muốn biến Việt Nam trở thành một thuộc quốc như Mãn - Hồi - Mông - Tạng!
Vì yêu quê hương là phải bảo vệ quê hương, cùng dân tộc giúp quê hương phát triển giàu đẹp.
Nghệ thuật Giáo dục Tâm lý đối với Người
Ca dao Việt Nam do nhiều người sáng tác qua nhiều không gian và thời gian khác nhau. Những người này có cả người tốt lẫn kẻ xấu, trong đó không ít câu diễn tả những tâm lý sai trái với tinh thần truyền thống của dân tộc, nên chúng ta cần phân biệt khi tìm hiểu.
Muốn nhận biết một câu ca dao có nguồn gốc từ đâu, chúng ta có thể căn cứ vào các cổ tích của Việt Nam đã có quan điểm như thế nào, các tôn giáo và các thời đại bị thống trị có chủ thuyết khác biệt ra sao.
Có thể nói dưới thời Nho Giáo thịnh trị, đã có rất nhiều câu ca dao do các Nho sĩ bị tha hóa làm ra, nhằm giáo dục truyền bá đạo lý Nho Giáo.
Gần với chúng ta hơn, Cộng sản Việt Nam đã tung ra rất nhiều những câu ca dao ca ngợi chế độ xấu xa, một cách rất trơ trẽn bẩn thỉu.
Như vậy những câu ca dao như trên cần được vạch rõ cho ai nấy hiểu rằng: Đó không hề là tâm lý Người Việt cổ truyền và chân chính, hầu không bị chệch hướng trong cuộc sống tâm lý, tình cảm. Điều này vô cùng quan trọng, vì những kẻ xấu thường viện dẫn những câu ca dao xấu để biện minh cho các hành vi bất chính.
Bài ca dao sau đây là một minh chứng cụ thể:
'Dạy Con
'Con ơi muốn nên thân người,
'Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha.
'Gái thì giữ việc trong nhà,
'Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa.
'Trai thì đọc sách ngâm thơ,
'Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa.
'Mai sau nối được nghiệp nhà,
'Trước là đẹp mặt, sau là ấm thân.
Bài trên cho thấy do Nho sĩ làm để khuyên bảo con cái tuân thủ giáo lý Tam Tòng & Tứ Đức - Tam Cương & Ngũ Thường - Nam ngoại & Nữ nội của Nho Giáo, trói buộc trai gái, khi cho rằng gái chỉ làm trọn vai trò chỉ trong gia đình - trai mới cần học hành đỗ đạt với mục đích ấm thân tầm thường theo 'nghiệp nhà', không có những khuyên bảo về sự dấn thân giúp xã hội theo tinh thần truyền thống anh hùng & anh thư vì dân vì nước như Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Nguyễn Công Trứ... theo phong cách được truyền tụng qua các cổ tích của người Việt Nam.
Chính lối giáo dục này đã khiến hầu hết những người được học hành đỗ đạt cao bấy nay bị tiêm nhiễm thói xấu ích kỷ của Nho Giáo, mà trở nên thờ ơ trước những khổ đau của xã hội, sự lầm than của Quốc Gia & Dân Tộc, hết lòng xu phụ các vua chúa, các chế độ bất chính; hết làm 'bầy tôi', lại làm 'bồi tây' 'khuyển cộng'?!
Với Cộng sản Việt Nam, thì họ có những bài ca dao tuyên truyền, xúi dân rất đểu giả:
-'Ra công trồng một vườn cà,
'Đem cà muối mặn, cả nhà ăn chung.
'Vịt gà nuôi béo nhốt lồng,
'Chờ anh bộ đội lập công trở về.
-'Mùa đông gió bấc mưa phùn,
'Xót người mang súng lội bùn thâu đêm.
'Mau đem tiền bạc góp thêm,
'Để mua áo ấm chăn êm tặng người.
-'Mỗi khi cháu bắn quân thù,
'Thì cháu lại nhớ Bác Hồ muôn năm.
'Mỗi khi lòng cháu hờn căm,
'Thì cháu lại nhớ lời răn Bác Hồ.
'Đại hạn nhớ ơn trận mưa,
'Đêm tối mịt mù, nhớ ngọn đèn soi.
Bấy nay chúng ta vẫn coi hai câu ca dao sau đây là khuôn mẫu của người Việt:
-'Cá không ăn muối cá ươn,
'Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.
Trên thực tế trong cổ tích và lịch sử Việt Nam, hai vị được tôn là Thánh đều không tuân lời cha, để đạt tới sự thánh thiện cao đẹp nhất: Chử Đồng Tử đã không tuân lời cha giữ chiếc khố lại cho mình, mà chôn theo cha. Trần Hưng Đạo không theo lời cha giết vua trả thù cho cha, một lòng giúp vua 3 lần đánh đuổi quân Mông Cổ, bảo vệ Quốc gia & Dân tộc.
Như vậy với Người Việt chính thống, 'cãi cha mẹ' đâu phải 'trăm đường con hư'?
Chính điều này đã khiến một vị 'thánh trong văn chương' là Cao Bá Quát chỉnh lại hai câu đối của vua Tự Đức.
Vua Tự Đức làm hai câu:
'Thần khả báo quân ân,
'Tử năng thừa phụ nghiệp.
Cao Bá Quát cho rằng câu trên về hình thức đã phạm thượng, vì khi đặt chữ Thần trên chữ Quân, tức tôi trên vua, chữ Tử trên chữ Phụ, tức con trên cha. Về nội dung thì vua có ân đức kẻ bề tôi mới phải báo đáp, cha có sự nghiệp cao đẹp con mới phải kế thừa. Nếu vua gian ác, cha gian trá mà bầy tôi và con cái tiếp tục noi theo, báo đền thì còn gì tai hại cho bằng?
Do vậy Cao Bá Quát đã chỉnh lại hai câu, khiến văn hay chữ tốt như vua Tự Đức cũng phải công nhận là đúng:
-'Quân ân, thần khả báo,
'Phụ nghiệp, tử năng thừa.
Mấy cổ tích và sự tích trên cho thấy người Việt có tâm hồn tuy phóng khoáng mà vẫn cao đẹp hiếm thấy, không hề bị gò bó trói buộc vào bất cứ một lề lối sống nào, mới có thể vươn lên những tầm cao hướng thượng vượt bực đầy sáng tạo.
Người Việt luôn coi công ơn của Cha Mẹ là lớn nhất, không gì có thể sánh ngang bằng, nên suốt đời phải thờ & kính:
-'Công cha như núi Thái Sơn,
'Nghiã mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
'Một lòng thờ mẹ, kính cha.
'Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
-'Khôn ngoan nhờ ấm cha ông,
'Làm nên phải đoái tổ tông phụng thờ.
'Đạo làm con chớ hững hờ,
'Phải theo hiếu kính mà thờ từ nghiêm.
-'Làm trai nết đủ trăm đường,
'Trước tiên điều hiếu đạo thường xưa nay.
'Công cha đức mẹ cao dày,
'Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ.
'Nuôi con khó nhọc đến giờ,
'Trưởng thành con phải biết thờ hai thân.
'Thức khuya dậy sớm chuyên cần,
'Quạt nồng ấp lạnh giữ tròn đạo con.
-'Trứng rồng lại nở ra rồng,
'Hạt thông lại nở cây thông rườm rà.
'Có cha sinh mới có ta.
'Làm nên nhờ bởi mẹ cha vun trồng.
Nhưng lại cho rằng:
-'Con hơn cha,
'Là nhà có phúc.
Những lời dạy con của người Việt thường khuyên tránh cái xấu, cũng là điều tốt:
-'Con ơi, mẹ bảo con này,
'Học buôn, học bán cho tày người ta.
'Con đừng học thói chua ngoa,
'Họ hàng ghét bỏ, người ta chê cười.
'Dù no dù đói cho tươi,
'Khoan ăn, bớt ngủ, là người thảo ngoan.
'Phòng khi đóng góp việc làng,
'Đồng tiền bát gạo lo toan cùng chồng.
'Trước là đẹp mặt cho con,
'Sau là họ mạc cũng không chê cười.
Nhân luân của người Việt được các cổ tích hướng dẫn nhiều điều, nên có thể căn cứ vào đó để biết người Việt xưa kia đối xử với nhau như thế nào, khác với nhân sinh quan của các nước khác ra sao:
Cụ thể:
**Mẫu mực đối với bản thân, là cổ tích An Tiêm:
-'Làm trai cho đáng nên trai,
'Xuống đông đông tĩnh, lên đoài đoài tan.
-'Làm trai quyết chí tu thân,
'Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo.
'Khi nên trời giúp công cho.
'Làm trai năm liệu, bảy lo mới hào.
'Trời sinh, trời chẳng phụ nào,
'Công danh gặp hội anh hào ra tay.
'Trí khôn rắp để dạ này,
'Có công mài sắt, có ngày nên kim.
**Mẫu mực đối với cha mẹ, là cổ tích Chử Đồng Tử:
-'Tu đâu cho bằng tu nhà,
'Thờ cha kính mẹ, ấy là chân tu.
-'Lên non mới biết non cao,
'Nuôi con mới biết công lao mẹ già.
-'Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa,
'Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương.
-'Đói lòng ăn hột chà là,
'Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.
**Mẫu mực về tình vợ chồng thì khá phức tạp, phải tùy trường hợp khu xử thích đáng theo các cổ tích Âu Cơ & Lạc Long Quân, An Tiêm, Bích Câu Kỳ Ngộ:
-'Chàng ơi! trẩy sớm hay trưa?
'Để em gánh gạo tiễn đưa đăng trình.
''-Thương nàng đã đến tháng sinh,
'Ăn ở một mình, trông cậy vào ai?
'Rồi khi sinh gái, sinh trai,
'Sớm khuya mưa nắng lấy ai bạn cùng?
'-Sinh gái thì em gả chồng,
'Sinh trai cưới vợ mặc lòng thiếp lo.
-'Đi đâu cho thiếp đi cùng,
'Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp mang.
-'Chồng giận thì vợ làm lành,
'Miệng cười chúm chím: Thưa anh giận gì?
'Xin anh đừng giận em chi,
'Muốn lấy vợ bé, em thì lấy cho.
-'Chưa chồng nón thúng quai thao,
'Chồng rồi nón rách, quai nào thì quai.
'Chưa chồng yếm thăm đeo hoa,
'Chồng rồi hai vú bỏ ra tày giành.
**Mẫu mực đối với anh em, là cổ tích Trầu Cau.
-'Anh em cốt nhục đồng bào,
'Kẻ sau người trước phải hầu cho vui.
'Lọ là ăn thịt, ăn xôi,
'Qúi hồ ở nết tới lui bằng lòng.
-'Con cô, con cậu thời xa,
'Con chú, con bác thật là anh em.
-'Anh em như thể chân tay,
Vợ chồng như áo, đổi thay tức thì.
**Mẫu mực đối với Quốc Gia & Dân Tộc, là các cổ tích Phù Đổng Thiên Vương, Tản Viên Sơn Thần, Trần Hưng Đạo, Từ Thức.
-'Con người có tổ, có tông,
'Như cây có cội, như sông có nguồn.
-'Ba năm trấn thủ lưu đồn,
'Ngày thì canh điếm, tôi dồn việc quan.
'Chém tre đẵn gỗ trên ngàn,
'Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai.
'Miệng ăn măng trúc, măng mai,
'Những giang cùng nưa, lấy ai bạn cùng?
Các cổ tích trên đều là những khuôn vàng thước ngọc, được ca dao xưng tụng theo nhiều kiểu cách khác nhau, nên chúng ta có thể căn cứ vào đó để nghiên cứu, tìm hiểu về tinh thần truyền thống của dân tộc vậy.
Nhận Định
Phải đến đầu Thế kỷ XXI, chúng ta mới thấy một số tín đồ Thiên Chúa Giáo trên thế giới phê phán Giáo hoàng Benedicto XVI là chưa thỏa đáng trong vấn đề răn bảo các tu sĩ phạm tội ấu dâm. Đồng thời cũng có một số đáng kể tín đồ Thiên Chúa Giáo người Việt ở California, lên tiếng phản đối Hồng y Phạm Minh Mẫn về việc đã có những ý kiến xu phụ bọn Việt Cộng gian ác, đang làm khổ cả dân tộc nói chung, tín đồ Thiên Chúa Giáo chân chính nói riêng.
Như vậy người Việt đã tỏ ra trung thực, khi ngay từ xa xưa đã phân biệt giữa các vị thần thánh và giới tu sĩ, không ngại châm biếm các tu sĩ kém đạo hạnh làm ô uế cả nơi thờ phượng.
Điều này cũng nên được kể là một cách thể hiện sự sáng suốt khi thờ phượng, không u mê đến độ coi tu sĩ như các bậc thánh thần, mà không dám làm đẹp niềm tin bằng cách không chấp nhận các sự lạm dụng thánh thần?
Qua các phân tích và tổng hợp kể trên, chúng ta thấy Người Việt từ xa xưa đã có những tư duy đứng đắn về cuộc sống tâm linh - tức những triết lý sống cao đẹp, có thể hệ thống hóa thành những kinh sách.
Tục ngữ & Ca dao Việt Nam đã phát triển nghệ thuật 'châm biếm' để xây dựng - theo phong cách 'giáo dục' rất tế nhị. Điều này khác hẳn lối 'châm chọc' làm cho người bị đề cập tức giận, nên thay vì sửa đổi biến thành hận thù.
Châm biếm nằm trong quan niệm giáo dục chính thống cổ truyền của Người Việt từ xa xưa, khi cho rằng 'Không Xấu cũng đủ tốt', nên sự châm biếm cái xấu để tránh xa, dễ hơn sự đề cao những điều tốt bắt ai nấy phải tuân thủ, khi điều được cho là tốt chưa hẳn đã có giá trị với mọi hoàn cảnh thời gian và không gian nhiều biến đổi, biển dâu - dâu biển?
Một số nhận định cho rằng 'Châm biếm là vũ khí của kẻ yếu chống lại kẻ mạnh', nhưng thực tế ở Việt Nam châm biếm là sức mạnh giáo dục của đám đông quần chúng khi muốn sửa đổi thói hư tật xấu nguy hại của một số phần tử quyền hành, có thể ảnh hưởng đến cuộc sống tốt đẹp bình thường của mọi người.
Tùy theo từng trường hợp, người Việt đã có những lối châm biếm nhằm giáo dục khác nhau, đưa ra những hình ảnh tinh tế, những nhận xét ngộ nghĩnh, những lời lẽ dí dỏm... khiến khách quan ai nấy đều phải cười, còn chủ quan người bị châm biếm sẽ tự thấy hổ thẹn mà có thể không vi phạm nữa.
Tùy tác dụng khác nhau của cách châm biếm, sẽ tạo ra những nụ cười khác nhau, như cười mỉm, cười tủm, cười bò, cười lăn...
So nghệ thuật Biếm Thế của ca dao Việt với nghệ thuật Biếm Họa, chúng ta thấy chỉ bằng lời lẽ mà ca dao Việt vẫn có thể nêu lên những hình ảnh bao hàm nhiều tình ý đặc thù của người và việc đáng chê trách, một cách ngộ nghĩnh không thua gì các bức tranh biếm họa nổi tiếng từ trong đến ngoài nước?
Ca dao châm biếm của Việt Nam cũng thường dùng lời lẽ thái quá để tô đậm tình ý, giống như nghệ thuật vẽ tranh biếm họa phóng to & tô đậm tình ý muốn đề cập:
'Lỗ mũi em mười tám gánh lông,
'Chồng yêu, chồng bảo râu rồng Trời cho.
Trong xã hội Việt Nam xưa nay, 5 thế lực nhiều quyền hành, có tác dụng lớn lao đến đời sống cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia là Thần quyền - Quân quyền - Quan quyền - Nam quyền và Nữ quyền.
Trong đó Nữ quyền có ảnh hưởng lớn lao nhất vì trực tiếp tác động đến đời sống căn bản gia đình, nên được tục ngữ & ca dao châm biếm nhiều nhất để giáo dục & xây dựng? Đáng chú ý là sự giáo dục này lại do chính nữ giới đề ra, khác với các răn dạy của các tôn giáo, đạo đức học... do nam giới đề ra; nên lối châm biếm để giáo dục phái nữ của Người Việt thuận tình và đạt lý hơn.
I. Nghệ thuật Châm biếm Thần quyền
Nếu Trời và một số Người được nhiều nền văn hóa trên thế giới thần thánh hóa, để rồi tôn thờ một cách quá đáng, coi như bất khả xâm phạm, phải qụy lụy van xin các ước nguyện một cách yếu hèn mất hết nhân vị; thì người Việt từ xa xưa đã coi Trời và các thánh thần chỉ như các bề trên gần gũi, đòi hỏi phải quang minh chính đại, công bình bác ái giúp người tốt, mới được tôn trọng.
Nhất là không có sự phân biệt nhỏ nhen giữa các vị thánh thần:
'-Thương em, anh cũng muốn thương,
'Sợ rằng bên Đạo - bên Lương khó chiều?!
'-Qúy hồ anh có lòng thương,
'Amen mặc thiếp - Khói hương mặc chàng.
'Đừng nói Lương - Giáo khác lòng,
'Vốn đều con cháu Lạc Hồng xưa kia.
Các hình ảnh trên trống đồng cho thấy người Việt xưa thẳng lưng sinh hoạt quanh Mặt Trời, chẳng hề có sự khom lưng luồn cúi nào. Đạo Mẫu đặc thù của Người Việt trong thờ phượng cũng múa hát trước ban thờ khi lên đồng... thể hiện ý thức Thiên - Địa - Nhân bình hòa trong thế Tam Tài. Các dịp lễ hội kỷ niệm các vị thần thánh Việt, thường có các 'hèm' diễn lại sự tích hiển hách của vị này để mọi người noi theo làm tốt, hơn là chỉ có các lễ nghi 'hưng bái' qùy lậy ước lệ bắt chước kiểu Trung Quốc, do các Nho sĩ hội nhập?
Thiên và Địa qua biểu tượng Âm và Dương còn được người Việt nhân cách hóa bằng hình ảnh Nam và Nữ, theo ý nghiã 'Âm + Dương = Hoà':
'Thuận vợ, thuận chồng,
'Tát nước bể đông cũng cạn.
mà không có sự cách biệt đối lập như quan niệm của Dịch học Trung Quốc, được Lão Giáo và Khổng Giáo lý giải 'Âm - Dương = Hóa'.
Với Người Việt, thì Trời - Đất - Thánh Thần đều được coi là có quyền uy như nhau, tuy được tôn kính rất mực nhưng không vì thế mà bất khả xâm phạm. Nên một khi Trời - Đất - Thánh Thần mắc sai lầm đều bị châm biếm:
-'Trời đánh, Thánh vật.
-'Trời cho hơn lo làm.
-'Trời đánh còn tránh bữa ăn.
-'Trời ơi! sinh giặc làm chi?
'Cho chồng tôi phải ra đi chiến trường!
-'Trời làm một trận lăng nhăng,
'Ông hóa ra thằng, thằng hóa ra ông!
-'Trời sao trời ở chẳng cân?
'Kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra!
-'Rau răm cắt ngọn còn tươi,
'Những nơi em định thì trời không xe.
'Những nơi gai góc mây tre,
'Em không có muốn, trời xe em vào!
'Tiếc thay một sợi chỉ đào,
'Áo gấm chẳng vá, vá vào áo tơi!
'Đau lòng thiếp lắm, chàng ơi!
'Muốn chôn bà Nguyệt, muốn vùi ông Tơ.
Thần Thánh cũng chỉ được tôn trọng khi đúng:
-'Bụt trên tòa,
'Gà nào mổ mắt.
-'No nên Bụt,
'Đói ra ma.
Người Việt phân biệt rất rõ ràng giữa các vị Thánh Thần và các tu sĩ của các vị Thánh Thần này, và hiểu rõ các tu sĩ hầu hết cũng chỉ là những con người bình thường, nên không thần thánh hóa giới tu sĩ. Thậm chí trong Đạo Nội thờ Địa Linh & Nhân Kiệt nơi các đình, đền, miếu... Người Việt chỉ cần có một Ông Từ lo quét dọn và còn bị sai phái, không có quyền khấn vái, giảng giải bất cứ điều gì. Muốn điều nào, Người Việt tự khấn vái hoặc viết qua các lá sớ đọc rồi đốt - gửi trực tiếp cho các vị thánh thần.
Do vậy mà sự châm biếm chỉ nhằm vào các tu sĩ kém đạo đức hoặc khả năng, rất ít khi chạm tới các vị thánh thần:
-'Nam mô một bồ dao găm.
-'Mũ ni che tai,
'Việc ai mặc nó.
-'Nước mắm xem màng,
'Thành Hoàng xem tàn xem cờ quạt.
-'Miếu thiêng mà chẳng ai thờ,
'Tay ai thanh tịnh xin nhờ thắp nhang.
-'Nam mô một bồ lấy bốn,
'Người ta đã khốn, lại còn nam mô!
-'Nam mô Bồ tát, bồ hòn,
'Ông sư bà vãi cuộn tròn lấy nhau.
-'Muốn tu Chùa ngói, Bụt vàng,
'Chùa tranh, Bụt đất trong làng thiếu chi.
-'Cái trống sơn đỏ,
'Cái mõ sơn son,
'Ông sư, bà vãi có con rõ ràng.
-'Chị là con gái nhà giàu,
'Ăn mặc đẹp đẽ vào chầu tòa sen.
'Em là con gái nhà hèn,
'Ăn mặc rách rưới, mon men ngoài hè.
-'Sư đi, chùa mốc, sân rêu,
'Mõ khuya ai gõ, chuông chiều ai khua?
'Vinh hoa là cái trò đùa,
'Đã tu không trót, lại mua trận cười!
-'Sư đương tụng niệm 'nam mô',
'Thấy cô xách giỏ mò cua bên chùa.
'Lòng sư luống những mơ hồ,
'Bỏ cả kinh kệ, tìm cô hỏi chào.
'Ai ngờ cô đi đằng nào,
'Tay lần tràng hạt ra vào băn khoăn.
-'Khôn như tiên,
'Không tiền cũng dại.
-'Chập chập rồi lại choeng choeng,
'Con gà sống lớn để riêng cho thầy.
'Đơm xôi thì đơm cho đầy,
'Đơm mà vơi điã thì thầy không ưa.
-'Ăn mặn nói ngay,
'Hơn ăn chay nói dối.
-'Vào chùa xem tượng mới tô,
'Xem chuông mới đúc, xem cô lộn chồng.
'Cô lộn chồng cô tu đã vậy,
Cha mẹ già trông cậy vào ai?
-'Thầy sãi, thầy sai
'Niêu hai cơm nếp
'Thầy cả đánh hết
'Đạo tràng ngồi không
'Tín chủ ngồi đồng
'Xin thầy miếng cháy.
-'Gió đập cành đa
'Gió đánh cành đa
'Thầy nghĩ là ma
'Thầy vùng thầy chạy
'Ba thằng ba gậy
'Đi đón thầy về.
-'Thầy về đêm tối
'Đom đóm bay qua
'Thầy nghĩ là ma
'Thầy vùng thầy chạy.
-'Nhất hào
'Nhị hào
'Tam hào...
'Chó chạy bờ rào
'Quẻ này có động
'Nhà này có quái
'Có con chó cái
'Cắn ra đằng mồm
'Có con chó đen
'Người lạ nó cắn
'Người quen nó mừng
'Nhà có cối xay
'Bốn chân chống đất
'Ngõng quay lên trời.
-'Vui xem hát
'Nhạt xem lội
'Tả tơi xem hội
'Bối rối xem đám ma
'Bỏ nước, bỏ nhà
'Thì nghe giảng đạo.
-'Trời cao bể rộng bao la,
'Việc nào mà chẳng do ta chủ trì.
'Trong việc nhà, ngoài thì việc nước,
'Giữ làm sao sau trước vẹn tuyền,
'Lọ là cầu Phật, cầu Tiên.
Một số bài thơ Nôm và một số bài thơ Quốc ngữ đậm tình dân tộc, được dân gian truyền tụng như thơ của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Bính... có các tố chất của ca dao, có lẽ nên được ghi nhận như một loại ca dao có tác giả?
Bà Chúa thơ Nôm là Hồ Xuân Hương có một số bài thơ nói về các hình ảnh đền chùa và tu sĩ kém đức hạnh thời nào cũng có, được truyền tụng trong dân gian, thể hiện cái nhìn chung của xã hội vào một số người đáng kể, trong giới tu hành xấu xa đáng chê trách:
'Đề đền Sầm Nghi Đống
'Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo,
'Kìa đền Thái thú đứng cheo leo.
'Ví đây đổi phận làm trai được,
'Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu!
'Sư hổ mang
'Chẳng phải Ngô, cũng chẳng phải ta,
'Đầu thì trọc lốc, áo không tà.
'Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm,
'Vãi núp sau lưng sáu bảy bà.
'Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe,
'Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha.
'Tu lâu có lẽ lên sư cụ,
'Ngất ngưởng tòa sen nọ đó mà.
'Kiếp tu hành
'Cái kiếp tu hành nặng đá đeo,
'Vị gì một chút tẻo tèo teo.
'Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc,
'Trái gió cho nên phải lộn lèo.
'Chùa Quán Sứ
'Quán Sứ sao mà cảnh vắng teo,
'Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo?
'Chày kình, tiểu để suông không đấm,
'Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo.
'Sáng ra không kẻ khua tang mít,
'Trưa trật nào ai móc kẽ rêu.
'Cha kiếp đường tu sao lắt léo,
'Cảnh buồn thêm chán nợ tình đeo.
Nhận Định
Qua các dẫn chứng trên, chúng ta thấy Người Việt chân chính luôn tôn trọng Trời - Đất - Thánh & Thần, nhưng quan niệm các tu sĩ không đạo đức làm ô uế nơi thờ phượng, nên mới có chủ trương châm biếm để chấn chỉnh, và không cần đến tu sĩ nơi các đình, đền, miếu... trong tín ngưỡng thờ Địa linh & Nhân kiệt.
Điều này cũng được Phật Giáo nêu rõ khi phân biệt 'Phật - Pháp - Tăng', cho rằng chỉ có Phật là cao cả, còn Pháp cao nhất là bộ kinh 'vô tự' qua quan niệm 'Sắc - Không'. Riêng Tăng phải đạo đức mới được tôn trọng.
Thay vì thần thánh hóa các tu sĩ, suy tôn qua các chức vị mang tính thế tục gợi sân si như sau này. Người Việt xưa đã coi các tu sĩ chân chính như người thân trong gia đình, tùy theo tuổi tác mà xưng danh như Sư Cụ, Sư Ông, Sư Bác, Sư Bà, Sư Cô, Chú Tiểu...
Nhiều khi cả ông Trời cũng bị coi nhẹ trong cuộc sống, qua câu 'Nhất Vợ - Nhì Trời'... Khi thấy Trời làm sai, thì chê 'Trời đui mù' qua câu 'Trời không có mắt'...
Do vậy mà trước khi Thiên Chúa Giáo du nhập Việt Nam, Thần Quyền qua Tam Giáo ngoại nhập chỉ giữ một địa vị thứ yếu, đóng vai trò ích quốc & lợi dân trong đời sống tinh thần, chứ không chi phối đời sống chính trị của các triều đình, chế độ. Một số tu sĩ dù được triều đình ban cho chức tước lớn, nhưng cũng chỉ hoạt động theo tôn chỉ đặt quyền lợi Quốc Gia & Dân Tộc lên trên Tôn Giáo - nên mới không gây ra cảnh tu sĩ lợi dụng niềm tin của tín đồ gây bạo loạn, làm suy yếu tinh thần đoàn kết của dân chúng, gây nguy hại cho các nhà cầm quyền - cụ thể như dưới thời Việt Nam Cộng Hòa vào Hậu bán Thế kỷ XX?!
Hơn thế nữa, người phụ nữ Việt còn vượt qua sự phân biệt tôn giáo của nhiều người, biết coi Quốc gia & Dân tộc mới là mẫu số chung để kết hợp, loại trừ mọi chia rẽ ngăn cách:
'Qúy hồ anh có lòng thương,
'Amen mặc thiếp, khói hương mặc chàng.
'Đứng nói tôn giáo khác lòng,
'Vốn đều con cháu Lạc Hồng xưa kia.
II. Nghệ thuật Châm biếm Quân quyền
Nếu Khổng Giáo đề cao Quân quyền rất mực, coi Vua như đấng 'Con Trời' (Thiên Tử) để bắt mọi người phải tuân phục vô điều kiện theo giáo lý 'Tam Cương' (Quân - Thần, Phụ - Tử, Phu - Phụ), thì từ xưa Người Việt đã coi nhẹ quyền hành nhà vua qua câu:
-'Phép vua thua lệ làng.
Lệnh của vua cũng bị Người Việt coi nhẹ, châm biếm khi vua Minh Mạng cấm phụ nữ mặc váy, phải mặc quần như đàn ông:
-'Tháng tám có chiếu vua ra,
'Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng.
'Không đi thì chợ không đông,
'Đi thì phải lột quần chồng, sao đang?
'Có quần ra quán bán hàng,
'Không quần ra đứng đầu làng ngó quan.
-'Nhà vua bắt lính đàn ông,
'Mười sáu tuổi rưỡi đứng trong công đường.
'Ai trông thấy lính chả thương,
'Đứng trong công đường nước mắt như mưa.
Khi vua Tự Đức xây Vạn Niên cung, làm khổ dân,có câu ca dao chê trách:
'Vạn Niên là Vạn Niên nào?
'Thành xây xương lính, hào đào máu dân!
Tuy nhiên, khi nhà vua tốt bị bức hại, người dân cũng bày tỏ ý tình:
-'Trời ơi, trông xuống mà coi,
'Nước Nam cơ khổ, con trời hai ông!
'Hàm Nghi chính thực vua trung,
'Còn như Đồng Khánh là ông vua xằng.
Và các ông vua cũng chỉ như người thường:
-'Vua Ngô băm sáu tàn vàng,
'Chết xuống âm phủ chẳng mang được gì.
'Chúa Chổm uống rượu tì tì,
'Chết xuống âm phủ kém gì vua Ngô?
-'Ngày xửa ngày xưa
'Có mười ông vua
'Một ông tịt mít
'Chết một còn chín
'Một ông ị rín
'Chết một còn tám
'Một ông qủy ám
'Chết một còn bẩy
'Một ông đái bậy
'Chết một còn sáu
'Một ông láu táu
'Chết một còn năm
'Một ông đau răng
'Chết một còn bốn
'Một ông lở rốn
'Chết một còn ba
'Một ông ghẻ da
'Chết một còn hai
'Một ông thối tai
'Chết một còn một
'Một ông toét mắt
'Chết một là hết.
Các bộ của nhà vua cũng bị đánh giá theo bổng lộc tham ô nhiều ít, không theo công việc:
-'Nhất thì bộ Lại, bộ Binh,
'Nhì thì bộ Hộ, bộ Hình cũng xong.
'Thứ ba thì đến bộ Công,
'Nhược bằng bộ Lễ, lạy ông xin về.
Và cho rằng ông vua chẳng tài đức gì, khi cha truyền con nối:
-'Con vua thì lại làm vua,
'Con ông thầy chùa đi quét lá đa.
-'Vua chúa lầm lẫn là thường,
'Cớ sao lại bắt người dân tội tù?
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng có một bài thơ nói về vua chúa, khác hẳn quan niệm 'tôn quân' của Trung Quốc:
'Vịnh cái quạt
'Mười bảy hay là mưới tám đây,
'Cho ta yêu dấu chẳng rời tay.
'Mỏng dầy chừng ấy, chành ba góc,
'Rộng hẹp dường nào, cắm một cây.
'Càng nóng bao nhiêu thời càng mát,
'Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày.
'Hồng hồng má phấn duyên vì cậy,
Chúa dấu vua yêu một cái này.
Thời Cộng Sản, buổi đầu Hồ Chính Minh tự ca ngợi và bắt các văn nghệ sĩ ca
ngợi cực kỳ, coi như vị thánh sống - bắt đặt hình lên ban thờ Tổ quốc, sấc láo hơn cả vua chúa thời phong kiến.
Đến khi họ Hồ chết, mới lộ ra những tội ác giết vợ, dâng biển đảo cho Trung Cộng để đổi lấy súng đạn đánh chiếm miền Nam, nhất thống sơn hà thực hiện chính sách thối nát cùng hung cực ác, khiến những ai ngây thơ cả tin bỗng ngã ngửa, chửi bới châm biếm họ Hồ thậm tệ nhiều nhất, ít thấy từ trước đến nay, qua các câu tục ngữ ca dao, thơ Bút Tre, thơ Nguyễn Chí Thiện...
-'Vào thăm hang Bác âm u,
'Chị em phụ nữ dở mu (mũ) ra chào
-'Bác Mao chẳng ở đâu xa,
'Bác Hồ ta đó chính là bác Mao!
-'Nhớ ai như nhớ Bác Hồ.
'Vừa chôn bác xuống, muốn cuốc mồ bác lên.
-'Chiều ba mươi lấy ảnh Bác lộng kiếng'
'Sáng mồng một đem sách Đảng đôn lò.
-'Một năm hai thước vải thô,
'Làm sao che kín bác Hồ em ơi!
Khi kỷ niệm 120 năm ngày sinh Hồ Chí Minh vào năm 2010, một bài thơ nhận định về họ Hồ được phổ biến trên internet:
-'Đem Hồ đánh bóng! Bóng thêm mờ!
'Đổi phấn thay son, cũng vẫn dơ!
'Quốc tế, Hồ lừa chưa sáng mắt,
'Nhân dân, đảng cưỡng phải tôn thờ.
'Nhét nhồi 'tư tưởng' nên lầm lạc!
'Học tập 'gương soi' đến ngốc ngơ!
'Xác thối trong lăng đang rệu rã!
'Muôn năm trường trị, đảng nằm mơ!
Học giả Vũ Ngọc Phan rất ý tứ trong cuốn 'Tục ngữ Ca dao Dân ca Việt Nam', khi ghi chú tên tác giả từng câu thơ ca ngợi lãnh tụ và chế độ mà bọn VC nhập nhằng gọi là ca dao, để minh định đây chỉ là những câu do bọn cán bộ tuyên truyền làm ra, chứ không hề do dân chúng làm ra.
Nhà thơ Nguyễn Tycal hai lần làm thơ 'tức cảnh' về họ Hồ:
Lần thứ nhất là khi thấy con tem có in hình họ Hồ tưới cây vú sữa, để ra cái điều là chăm sóc miền nam, nhưng là giết chết:
'Nhìn bác Hồ tưới cây vú sữa,
'Cầm bình tôn bác tưới nửa trên.
'Gốc cây thấy vậy hét lên:
'-Trời ơi! Tưới vậy chết em, bác Hồ!
Lần thứ hai là khi thấy câu thơ bọn cán bộ tuyên truyền ca ngợi tên họ Hồ đẹp, mà không hiểu rằng đã thể hiện sự tự thị ngu muội và xấu xa nhất, vì 'minh' đã là khó, 'chí minh' là sự kiêu ngạo tự tôn đáng khinh của kẻ ít học tự ti. Cuộc đời họ Hồ từng phải xin lỗi dân về việc đấu tố, rồi du nhập chế độ Cộng sản hại dân, hại nước... thử hỏi có đáng gọi là 'minh' không :
'Tháp Mười đẹp nhất bông sen,
'Việt Nam đẹp nhất có tên bác Hồ?
'Nhưng 'chí minh' thành 'chí ngu',
'Khi rước cộng sản giày mồ cha ông!
'Những ai kiến thức tinh thông,
'Đều biết xưng 'chí' là không hiểu gì?
Nhận định
Ca dao Việt chỉ ca ngợi các bậc anh hùng & liệt nữ có công với dân với nước, nên dù là vua quan hay thường dân, một khi có công lao đều được tôn trọng thờ phượng. Còn nếu không, sẽ rất ít khi được nói đến tên, vì người dân Việt nhận định rõ ràng:
'Được là vua,
'Thua là giặc.
Đây chính là điểm khác biệt giữa Việt Nam và Trung Hoa về tư tưởng chính trị.
Tuy nhiên, khuyết điểm của người Việt là sự 'thần thánh hóa' những người có công chút đỉnh, biết lạm dụng tự thần thánh hóa... để rồi bị mắc họa - như kiểu thần thánh hóa Hồ Chí Minh là một thí dụ cụ thể.
Một khi người Việt coi Trời có thể sai mà chê đui mù, như câu 'Trời không có mắt', thì việc Trung Quốc coi vua là con trời (thiên tử) rất khác biệt với Việt Nam.
Vậy quan niệm về Quân Quyền của Việt Nam và Trung Quốc, ai đúng ai sai?
Lịch sử cho thấy các vị vua tốt, xứng đáng với chức quyền chỉ chiếm con số rất nhỏ, trong khi các ông vua xấu xa tham tàn luôn chiếm đa số?
Chỉ cần trả lời câu hỏi này, chúng ta cũng đã có giải đáp.
Tưởng cũng nên biết, các vị vua tài đức có nhiều công ơn với đất nước, luôn được người dân Việt qúy trọng, dù có bị các triều đại về sau thù hận tìm cách triệt hạ. Cụ thể như vua Quang Trung bị triều đại Gia Long đào mồ phá hại, nhưng nơi chùa Mộc gần bên gò Đống Đa chôn xác quân Thanh, dân vẫn tạc tượng nhà vua thờ phượng dưới hình ảnh của một vị bồ tát, lưu giữ tới tận ngày nay.
Song song với ca dao, việc chống các chế độ cai trị hà khắc từ thời Phong kiến xưa đến Cộng sản nay, còn được thể hiện một cách sắc bén qua những câu chuyện tiếu lâm, như chuyện về Cống Quỳnh thời Vua Lê Chuá Trịnh, chuyện về Hồ Chí Minh và Đảng CSVN...
-'Trạng chết, Chúa cũng băng hà,
'Dưa gang đỏ đít, thì cà đỏ trôn.
-'Trâu đen ăn cỏ,
'Trâu đỏ ăn bò.
III. Nghệ thuật châm biếm Quan Quyền
Thêm một vấn đề cho thấy người dân Việt không hề chịu ảnh hưởng của Khổng giáo: Trong khi Khổng Giáo cho rằng các quan thay vua chăn dắt dân, nên được coi như bố mẹ của dân (phụ mẫu chi dân), thì người dân Việt coi giới quan chức không ra gì:
'Quan có cần nhưng dân chưa vội,
'Quan có vội, quan lội quan đi.
Giới phụ nữ còn nêu lên bộ mặt thật các quan lớn, khi màn đêm buông xuống:
'Ban ngày quan lớn như thần,
'Đến đêm quan lớn tần mần như ma.
'Ban ngày quan lớn như cha,
'Đến đêm quan lớn rầy rà như con.
Nhiều câu tục ngữ, ca dao đề cập tới giới quan lại, đã vạch trần bộ mặt thật xấu xa của giới người này:
-'Quan yêu, bạn ghét.
-'Miệng quan, trôn trẻ.
-'Sang chơi thì cứ đi sang,
'Đứng bắt dọn đàng, làm nhọc lòng dân.
Một câu đối thể hiện sự khinh bỉ giới quan lại đến cực điểm:
-'Miệng nhà quan có gang, có thép.
+'Đồ nhà khó vừa nhọ, vừa thâm.
Đại tướng Việt Cộng Võ Nguyên Giáp, nổi tiếng về tài cầm quân giúp Hồ Chí Minh thắng Pháp, đã bị châm biếm:
'Hoan hô đồng chí Võ Nguyên
'Giáp ta thắng trận Điện Biên trở về.
'Thắng làm chi thêm não nề,
'Nước đau, dân khổ, ê chề bao năm!
'Khi xưa đại tướng cầm quân,
'Ngày nay đại tướng nắm quần chị em!
'Khi xưa đại tướng công đồn,
'Ngày nay đại tướng ngăn l... cản c...!
**
Riêng những vị quan văn võ có công đức lớn nhỏ với dân với nước, đều được tri ân, thờ phượng nhắc nhở ở khắp nơi trong nước. Nhỏ thì được thờ ở các đình làng, lớn thì được tôn vinh nơi các đền thờ chung cho cả nước.
Riêng Uy viễn tướng công Nguyễn Công Trứ nhờ giúp dân khai hoang mở huyện Tiền Hải, đã được người dân huyện này lập đền thờ ngay khi ông còn sống, để tỏ lòng biết ơn. Cũng do vậy mà ông bị bọn đồng liêu xấu dèm pha, bị nhà vua nghi ngờ cách chức, phải làm lính một thời gian!
Nhận định
Một đặc điểm quan trọng, là người Việt xưa nay không chỉ đánh giá các quan văn võ qua các công lao, mà còn qua cả đức độ. Cụ thể như Hoàng Diệu, Phan Thanh Giản, các tướng lãnh của VNCH... tử tiết khi thất bại, đều được tôn kính, ca ngợi, lập nơi thờ phượng.
Việc tử tiết khi thất bại là điều rất đáng ngưỡng mộ, vì đã thể hiện khí tiết và tinh thần trách nhiệm rất cao.
Tuy nhiên, nếu thay vì tử tiết, các vị quan văn võ trên duy trì cuộc sống để tìm cách phục hồi lại những gì đã mất, có lẽ càng thể hiện tinh thần trách nhiệm và khí tiết cao hơn nữa?
Vì tử tiết chỉ thể hiện cái 'dũng khí' của kẻ sĩ, nhưng 'dũng khí' sẽ trở thành 'hùng khí' khi chấp nhận đau thương nhất thời để lo đại sự cho muôn đời, giúp không chỉ 'thành nhân' mà còn 'thành công'?
Trách nhiệm của các vị quan văn võ luôn bao gồm 2 điều điện: Điều kiện 'ắt có' là 'thành nhân' - Điều kiện 'và đủ' là 'thành công'.
Lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng là ông Nguyễn Thái Học được đánh giá 'Không thành công, cũng thành nhân' là một thí dụ điển hình đáng suy nghĩ: Phải chi ông Nguyễn Thái Học chấp nhận lánh mặt để tồn tại cho mai sau, Hồ Chí Minh sẽ không thể một mình một chợ, khuynh đảo Việt Nam như đã xảy ra?
Một điều vô cùng tai hại, là việc tử tiết thể hiện sự bất khuất là do ảnh hưởng của Nho Giáo, còn như Hai bà Trưng đã chiến đấu đến cùng, chết giữa trận tiền một cách hào hùng.
Vậy mà giới Nho sĩ viết sử sách đã viết là Hai Bà gieo mình xuống Hát Giang tự tận - dũng khí theo kiểu Nho Giáo; trái với sự thật khi đền thờ Hai Bà không dùng sơn son, chỉ dùng sơn đen - vì muốn kiêng tránh hình ảnh cái chết đẫm máu giữa chiến trường của Hai Bà!
Từ câu chuyện Lạc Long Quân nhường việc giúp con cai trị sơn hà cho Âu Cơ, dắt nửa số con xuống biển lo phát triển đất nước, cho thấy tự ngàn xưa Nam giới Việt đã thể hiện sự hết lòng vì nước vì dân, và nhất là tin tưởng bảo vệ người vợ rất mực.
Cuối Thế kỷ XX, khi Cộng sản Việt Nam cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam, thêm một lần nữa người đàn ông Việt đã theo truyền thống văn hiến Lạc Long Quân, cùng con vượt biển tìm lối thoát, để vợ và những đứa con nhỏ lưu lại trong bình an.
Phải đem tâm tình của nam giới Việt cuối thế kỷ XX, so sánh với tâm tình Lạc Long Quân gần 5.000 năm trước, chúng ta mới có thể phần nào am hiểu tâm thức nam giới Việt Nam, khi hữu sự sẽ hết lòng lo lắng cho vợ con, chấp nhận hy sinh, dấn thân làm những việc khó khăn, nhận trách nhiệm lớn về phần mình?
Chính tâm thức cao cả này đã khiến nam giới Việt được hình dung bằng hình ảnh núi Thái Sơn, trấn giữ đương đầu khi giông tố & an nhiên tự tại khi thanh bình, tạo nên những giá trị được công nhận, địa vị được tôn trọng:
-'Trai thời loạn,
'Gái thời bình.
-'Trai anh hùng,
'Gái thuyền quyên.
-'Chồng tới, vợ lui
'Chồng hòa, vợ thuận.
-'Chồng như đó,
'vợ như hom.
-'Vắng đàn ông quạnh nhà,
'Vắng đàn bà quạnh bếp.
-'Thuận vợ, thuận chồng,
'Tát nước bể đông cũng cạn.
-'Chồng khôn thì nổi cơ đồ,
'Chồng dại luống tổn công phu nhọc nhằn.
-'Chồng khôn vợ được đi hài,
''Vợ khôn chồng được nhiều bài cậy trông.
-'Chồng giận thì vợ bớt lời,
'Cơm sôi nhỏ lửa, một đời không khê.
-'Chồng dữ thì em mới lo,
'Mẹ chồng mà dữ mổ bò ăn khao.
-'Vợ chồng tình nghiã một đời,
'Ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt hơn.
-'Chồng yêu cái tóc nên dài,
'Cái duyên nên đẹp, cái tài nên khôn.
-'Con hư bởi tại cha dong,
'Vợ hư bởi tại thằng chồng cả nghe.
-'Vợ chồng là nghiã tao khang.
'Chồng hòa, vợ thuận, nhà thường yên vui.
'Sinh con mới nên thân người,
'Làm ăn thịnh vượng, đời đời âm no.
Do nam giới Việt Nam giữ vai trò trọng yếu trong việc phát huy cuộc sống gia đình - xã hội - quốc gia, một khi họ không hoàn thành trách vụ này, mọi thứ sẽ bị suy sụp; nên nữ giới Việt đã phải tận dụng rất nhiều lời lẽ và phương cách khác nhau để động viên xây dựng, nhưng thường là 'chê điều xấu, nhiều hơn khen điều tốt' theo truyền thống đạo lý 'không xấu cũng là tốt', của nền luân lý truyền thống cổ truyển Việt Nam.
Trong cuộc sống thực tế bình thường tại Việt Nam, người phụ nữ Việt cũng không đòi hỏi chồng con phải làm những điều gì cao siêu, mà chỉ cần đạt được dăm ba cái 'không', như không cờ bạc - không rượu chè - không trai gái... cũng được coi là người chồng mẫu mực, đủ để được kính nể, ca ngợi, thương yêu.
Nghiên cứu sâu rộng về những bài hát ru con của nữ giới Việt, chúng ta thấy có nhiều bài hát ru mang ẩn ý khuyên chồng:
-'Đêm khuya lặng gió, thanh trời,
'Xin chàng bớt ngủ, nghe lời em ru.
-'Dang tay đánh thiếp sao đành?
'Áo rách ai vá? Áo lành ai mua?
-'Cái cò là cái cò quăm,
'Mày hay đánh vợ, mày nằm với ai?
'Có đánh thì đánh sớm mai,
'Chớ đánh chập tối, chẳng ai cho nằm.
-'Anh đừng rẫy vợ anh ra,
'Vợ anh chẳng thể như hoa đầu cành.
'Nhưng mà duyên thắm, nết lành.
'Lam làm khuya sớm vẫn manh nâu sồng.
'Anh đừng phụ cậy, chuộng hồng.
'Anh đừng phụ gái có chồng, có con.
'Anh ưa da trắng, gót son,
'Liệu anh ngậm được bồ hòn hay chăng?
Những tật xấu của nam giới thường được phụ nữ nhắc nhở để tránh, bằng những câu hát, qua các điệu ru con, nhưng đồng thời cũng là lời nhắn nhủ chung cho nam giới.
Tưởng cũng nên biết, các phụ nữ nông thôn gần gũi thân thiết với nhau, nhà cửa liền bên có thể nghe thấy tiếng nói của nhau, nên khi thấy bạn gái xóm giềng gặp phải người chồng xấu, họ thường mượn lời ru & câu hát & điệu hò bắn tiếng khuyên nhủ giúp cho nhau:
-'Chơi trăng không biết trăng tròn,
'Như anh không biết vợ giòn, vợ xinh.
-'Lấy chồng cho khỏi nắng mưa,
'Chẳng ngờ lại quá ngày xưa ở nhà!
-'Sông bao nhiêu nước cũng vừa,
'Trai bao nhiêu vợ cũng chưa hả lòng.
-'Chàng ơi, nếu thiếp lỗi lầm,
'Xin chàng đóng cửa, âm thầm bảo nhau.
-'Xin đừng tham quế phụ hương,
'Quế già quế rụng, hương thơm lâu ngày.
-'Nào khi anh bủng, anh beo,
'Tay cất chén thuốc, lại đèo múi chanh.
'Bây giờ anh khỏi, anh lành,
'Anh mê nhan sắc, anh tình phụ tôi.
-'Vợ anh như ngọc, như ngà,
'Anh còn tình phụ, nữa là thân tôi.
'Vợ anh như thể điã xôi,
'Anh còn phụ bạc, nữa tôi cơm đùm.
-'Vợ anh như trúc, như thông,
'Như hoa mới nở, như rồng mới thêu.
'Anh còn vặn vẹo trăm chiều,
'Gan ai là sắt mới gieo mình vào!
-'Tôi nay hăm mấy tuổi đầu,
'Cha mẹ gán ghép làm dâu nhà người.
'Nói ra sợ chị em cười,
'Ngày ba trận chửi, chín mười lần đay.
'Việc làm chẳng kịp trở tay,
'Mẹ chồng nhiếc mắng, la rầy nhỏ to.
'Cơm ăn trong bụng chẳng no,
'Manh quần, tấm áo chẳng cho mặc lành.
'Đêm thì thức đủ năm canh,
'Rau heo, cháo chó, quẩn quanh trăm bề!
-'Những khi vai gánh, tay đèo,
'Trở về lấy quách chồng nghèo cho xong.
'Ngày ngày quang thúng đi đong,
'Chày gạo, cối lúa không xong, có chồng.
'Nhỡ khi đi gánh, về gồng,
'Trời mưa, trời gió, có chồng đón đưa.
'Nhỡ khi đi sớm, về trưa,
'Chẳng ai trách quở, tha hồ rảnh rang.
'Không ai đo đếm ruột gan,
'Vợ chồng chung sức cùng làm rõ vui,
'Chỉ mong con cái nên người,
'Chẳng ai khổ mãi suốt đời mà lo.
-'Trách duyên, lại giận trăng già,
'Xe tơ lầm lỗi, hóa ra chỉ mành.
'Biết ai than thở sự tình?
'Nên đành mình tự thương mình mà thôi!
'Lấy chồng gặp phải kẻ tồi,
'Cho nên mới phải lần hồi đắng cay!
'Quanh năm chè rượu xỉn say,
'Khi nay thuốc phiện, khi mai tài bàn.
'Nói ra mang tiếng phụ phàng,
'Nín đi khổ não can tràng xiết bao!
'Cũng là phận gái má đào,
'Người may gặp được anh hào giỏi dang.
'Chẳng may thân phận lỡ làng,
'Một đời khốn khổ, đau thương trăm chiều!
Điều độc đáo của đường lối giáo dục cổ truyền Việt Nam, là nữ giới đã nắm vai trò quan trọng, đưa ra những lời khuyên thiên về tình cảm, dễ khiến lòng người bị cảm hóa.
Điều này khác hẳn với các nền đạo đức của Đông Tây Cổ Kim, khi nam giới luôn là các lý thuyết gia chỉ đạo các giáo điều luân lý, gây nhiều tranh cãi đối đầu vì các giáo điều quá thiên về lý trí, thể hiện đầu óc hạn hẹp chỉ có một chiều - nhiều khi trở thành quá khích mà biến thành tham vọng độc tôn như ở một số các tôn giáo bị thoái hóa, do các môn đồ và tu sĩ thấp kém tạo thêm ra?
So sánh một bài Chồng Khuyên Vợ với một bài Mẹ Khuyên Con Gái, chúng ta sẽ thấy có những khác biệt sâu sắc, có thể đưa đến kết quả khác hẳn nhau, khi phiá Nam thiên về lý, phiá Nữ thiên về tình:
'Chồng Khuyên Vợ
'Từ khi em về làm dâu,
'Anh thì dặn trước, bảo sau mọi lời.
'Mẹ già dữ lắm em ơi!
'Nhịn ăn, nhịn mặc, nhịn lời mẹ cha.
'Nhịn cho nên cửa, nên nhà,
'Nên kèo, nên cột, nên xà tầm vông.
'Nhịn cho nên vợ, nên chồng,
'Thời em coi sóc lấy trong cửa nhà.
'Đi chợ thời chớ ăn quà,
'Đi đâu thì chớ rề rà ở trưa.
'Dù ai bảo đợi, bảo chờ,
'Thì em nói dối con thơ em về.
'Mẹ Khuyên Con Gái
'Con ơi!, Mẹ bảo con này,
'Học buôn, học bán cho tầy người ta.
'Con đừng học thói chua ngoa,
'Họ hàng ghét bỏ, người ta chê cười.
'Dù no, dù đói, cho tươi,
'Khoan ăn bớt ngủ, liệu bài lo toan.
'Phòng khi đóng góp việc làng,
'Đồng tiền, bát gạo, sắm sang cho chồng.
'Trước là đắc nghiã cùng chồng,
'Sau là họ mạc cũng không chê cười.
'Con ơi nhớ bấy nhiêu lời.
Qua hai bài trên, chúng ta thấy trong khi người chồng bắt vợ phải 'nhịn ăn, nhịn mặc, nhịn lời...' thì người mẹ khuyên có tình có lý hơn, chỉ đòi hỏi 'khoan ăn, bớt ngủ', biết 'liệu bài lo toan'.
Hậu quả lối giáo dục độc đoán của phái nam, chủ trương dùng uy quyền áp đảo, đã đẩy nhiều tôn giáo vào chỗ phải bày ra 'thiên đường' và 'địa ngục' để dọa nạt tín đồ, khiến các tín đồ dần trở thành khiếp nhược, mất đi nhiều nhân tính cao đẹp.
Khi văn hóa Khổng giáo theo chân bọn xâm lược tràn qua Việt Nam, đã tạo cho phái nam Việt Nam những quyền hành một cách bất công, làm cho nhiều kẻ sai trái không xứng đáng vẫn bắt vợ phải tuân thủ đạo lý 'Tam tòng - Tứ đức'.
Điều này đã bị nữ giới Việt phản ứng mạnh mẽ, dưới nhiều khiá cạnh khác nhau:
-'Vợ chồng là nghiã tao khang,
'Xin đừng dở thói phũ phàng vô luân.
'Muốn cho vẹn đạo Tam tòng,
'Phải sao cho xứng đạo chồng, đạo con.
-'Hoài miệng ăn quả quít khô,
'Hoài thân mà lấy nhà nho lụn tàn.
'Nhà nho chữ nghiã dở dang,
'Xui nguyên giục bị, làm đơn kiếm tiền.
'Nhà nho cái chữ đã hèn,
'Cái sức lại yếu, đua chen bằng gì?
'Nhà nho tính khí kiêu kỳ,
'Phân tranh miếng thịt, suy bì miếng xôi.
'Chồng nho khổ lắm, ai ơi!
'Biết không ra biết, ngu thời không ngu!
-'Chồng gì anh, vợ gì tôi?
'Chẳng qua là cái nợ đời chi đây!
'Mỗi người một nợ cầm tay,
'Đời xưa nợ vợ, đời nay nợ chồng!
-'Chồng em nó chẳng ra gì,
'Tổ tôm, sóc điã, nó thì chơi hoang.
'Nói ra xấu thiếp hổ chàng,
'Nó giận nó phá, tan hoang cửa nhà.
'Nói đây có chị em ta,
'Còn dăm thúng thóc, một vài cân bông.
'Em bán trả nợ cho chồng,
'Còn ăn, hết nhịn, thỏa lòng chồng con.
'Đắng cay phải ngậm bồ hòn!
-'Cờ bạc nó đã khinh anh,
'Áo quần bán hết, một manh chẳng còn.
'Gió đông nam chui vào đống rạ,
'Hở mông ra cho quạ nó lôi.
'Anh còn cờ bạc nữa thôi?
-'Thân thiếp như cánh hoa đào,
'Đang tươi, đang tốt, thiếp trao cho chàng.
'Bây giờ nhụy rữa, hoa tàn,
'Vườn xuân dù kém, sao chàng lại chê?
'Xin chàng cho thiếp trở về,
'Dù chàng năm thiếp, bảy thê mặc chàng.
'Vì ai chàng mới rỡ ràng?
'Nhờ ai chàng mới nên quan, đổi đời?
'Chàng thử nghĩ lại mà coi,
'Sao chàng chẳng nhớ cái thời ngày xưa.
'Nào khi cờ bạc đen thua,
'Tấm quần, tấm áo thiếp mua cho chàng.
'Nào khi công nợ bẽ bàng,
'Thiếp tháo vòng bạc, nhẫn vàng trao cho.
'Những khi ong bướm nhà trò,
'Một mình thân thiếp chàng vò mấy phen.
'Bây giờ ăn ở bạc đen,
'Có trăng phụ rẫy bóng đèn, làm vui.
'Chàng từ, thiếp cũng xin thôi,
'Chẳng cần phải nói ngược xuôi, nhọc lòng!
-'Xin chàng chớ có trách ai,
'Sao chàng lại trách hoa nhài không thơm?
'Vì chàng lỏng lẻo dây cương,
'Nên con tuấn mã rộng đường thênh thang.
'Nghĩ xa rồi lại nghĩ gần,
'Nào em có ở bất nhân điều gì?
'Đấy bất nhân, đây mới bất nghì,
'Bởi chàng bạc trước, em thì bạc sau.
Thế nên nữ giới Việt thẳng thắn nêu ra những gương xấu về chồng con, để cảnh cáo nam giới chớ vi phạm, mà lãnh các hậu quả tai hại:
-'Hẩm duyên lấy phải chồng đần,
'Có dăm mẫu ruộng bán dần mà ăn!
-'Biết thuở nào cá ra khỏi vực?
'Biết thuở nào hết cực thân em?!
-'Tiếc thay hạt gạo tám xoan,
'Thổi nồi đồng điếu, lại chan nước cà!
-'Xưa kia ở với mẹ cha,
'Mẹ cha yêu dấu như hoa trên cành.
'Từ ngày tôi ở với anh,
'Anh đánh, anh chửi, anh tình phụ tôi.
'Đất xấu chẳng nặn nên nồi,
'Anh đi lấy vợ, cho tôi lấy chồng.
-'Thiếp về lựa chuối thiếp mua,
'Lựa hương thiếp thắp, lựa chùa thiếp tu.
Trong cuộc sống gia đình từ đông sang tây, từ cổ chí kim, người vợ luôn phải lo toan nhiều hơn người chồng, mới có thể giúp chồng thành công.
Tây phương cho rằng: 'Đằng sau một người chồng thành công, phải là một người vợ tài giỏi đảm đang'.
Nhưng Khổng Giáo lại phủ nhận hết công lao người vợ, nên phụ nữ Việt đã phản ứng, vạch ra sự hy sinh và những công khó của họ, để nam giới hiểu biết, tôn trọng:
-'Chưa chồng, nón thúng quai thao,
'Chồng rồi, nón rách quai nào thì quai.
''Chưa chồng yếm thắm đeo hoa,
'Chồng rồi, hai vú bỏ ra tày giành!
-'Những ngày tôi ở cùng cha,
'Cái nón chín rưỡi, thao ba mươi đồng.
'Đến khi tôi về cùng chồng,
'Cái nón sáu đồng mà buộc quai mo!
-'Vì chàng thiếp phải mò cua,
'Những như thân thiếp chỉ mua mấy đồng.
'Vì chàng thiếp phải long đong,
'Những như thân thiếp dễ xong mọi bề.
-'Anh về hái đậu, trẩy cà,
'Để em đi chợ, kẻo mà lỡ phiên.
'Chợ lỡ phiên tốn công thiệt của,
'Miệng tiếng người cười rủa sao nên!
'Lấy chồng phải gánh giang sơn,
'Chợ phiên còn lỡ, giang sơn còn gì?!
-'Anh đi, em ở lại nhà,
'Hai vai gánh vác mẹ già con thơ.
'Lầm than bao quản muối dưa,
'Anh đi, anh liệu chen đua với đời.
-'Quả cau nho nhỏ,
'Cái vỏ vân vân,
'Nay anh học gần,
'Mai anh học xa.
'Tiền gạo thì của mẹ cha,
'Cái nghiên cái bút thực là của em.
Với những người chồng không biết lẽ thiệt hơn, nữ giới Việt sẽ không im lặng, mà có những đối đáp tương xứng, nếu thấy cần chỉ bảo:
-'Thứ nhất vợ dại trong nhà,
'Thứ nhì trâu chậm, thứ ba rựa cùn.
'-Vợ dại thì đẻ con khôn,
'Trâu chậm lắm thịt, rựa cùn chịu băm.
-'Chồng khôn mới nổi cơ đồ,
'Chồng dại luống tốn công phu nhọc nhằn.
Từ xưa, đời sống vợ chồng trong gia đình Việt thể hiện sự bình đẳng, nên đòi hỏi sự kết hợp hài hòa mới có thể phát triển tốt đẹp:
-'Chồng khôn vợ được đi hài,
'Vợ khôn chồng được nhiều bài cậy trông.
-'Vợ chồng như đôi chim cu,
'Chồng đi trước, vợ gù gù theo sau.
-'Khuyên chàng đọc sách, ngâm thơ,
'Dầu hao thiếp rót, đèn mờ thiếp khêu.
Một khi người chồng tỏ ra xứng đáng, sẽ được người vợ Việt coi trọng, yêu qúy, sẵn sàng chiều chuộng rất mực để tạo sự thuận hòa:
-'Thương nhau bất luận giàu nghèo,
'Dù cho lên núi, xuống đèo cũng cam.
-'Thương chồng nấu cháo le le,
'Nấu canh bông bí, nấu chè hạt sen.
-'Đốt than nướng cá cho vàng,
'Lấy tiền mua rượu cho chàng uống chơi.
-'Trời mưa thì mặc trời mưa,
'Chồng tôi đi bừa, đã có áo tơi,
'Chồng tôi đi chơi đã có nón đội,
'Chồng tôi đi hội đã có dù che.
-'Đôi ta như thể con bài,
'Đã quyết thì đánh, đừng nài thấp cao.
'Đôi ta như đá với dao,
'Năng liếc năng sắc, năng chào năng quen.
-Đôi ta làm bạn thong dong,
'Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng.
'Mặc ai bàn dọc nói ngang,
'Đũa ngọc & mâm vàng kết nghiã trăm năm.
-'Đôi ta như thể con tằm,
'Cùng ăn một lá, cùng nằm một nong.
'Đôi ta như thể con ong,
'Con quấn, con quít, con trong, con ngoài.
'Đôi ta như thể con bài,
'Chồng đánh, vợ kết, chẳng sai quân nào.
Và người vợ Việt sẵn sàng cư xử xứng đáng với những người chồng tốt:
-'Chồng yêu cái tóc nên dài,
'Cái duyên nên đẹp, cái tài nên khôn.
-'Chồng ta áo rách ta thương,
'Chồng người áo gấm, xông hương mặc người.
-'Đi đâu cho thiếp đi cùng,
'Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.
-'Tay mang khăn gói sang sông,
'Mồi hôi ướt đẫm, thương chồng phải theo.
-'Thương chồng nên phải lầm than,
'Xưa nay ai bắt việc quan đàn bà.
-'Thương chồng nên phải gắng công,
'Nào ai xương sắt, da đồng chi đây.
-'Ai làm cho cải tôi ngồng,
'Cho dưa tôi khú, cho chồng tôi chê!
'Chồng chê, làm chồng hết chê,
'Dưa khú nấu với cá trê ngọt lừ.
-'Đương khi bếp tắt cơm sôi,
'Con ngồi khóc đói, chồng đòi tòm tem.
'Bây giờ bếp đã cháy lên,
'Cơm đà sắp chín, tòm tem thì tòm.
-'Em là con gái đồng chiêm,
'Bán rau mua bút, mua nghiên cho chồng.
'Mai kia chồng chiếm bảng rồng,
'Bõ công chăm sóc cho chồng, cho rau.
-'Cái bống là cái bống bình,
'Thổi cơm, nấu nước, một mình mồ hôi.
'Rạng ngày có khách đến chơi,
'Cơm bưng, rượu rót cho vui lòng chồng.
'Chiều tối ăn uống mới xong,
'Tay nhấc mâm đồng, tay trải chiếu hoa.
'Nhịn miệng đãi khách phương xa,
'Đấy là của gửi chồng ta ăn đường.
-'Làm trai mà chẳng nên trai,
'Ăn cơm với vợ, lại nài vét niêu.
'Vợ thương, nên vợ cũng chiều,
'Hì hục lấy muỗng cậy niêu cùng chồng.
Nạn đa thê du nhập từ phương Bắc qua chủ trương Nam Quyền của Nho Giáo, đã gặp những phản ứng của phụ nữ Việt, từ nhẹ nhàng đến mạnh mẽ:
-'Đã thành gia thất thì thôi,
'Đèo bòng cho lắm, tội trời ai mang?!
-'Đói lòng ăn nắm lá sung,
'Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng.
'Một thuyền một lái chẳng xong,
'Một chĩnh đôi gáo, đừng nong tay vào.
Nữ giới Việt đã mô tả sự khốn khổ của tình cảnh lấy chồng chung, để khuyên bại gái nên tránh xa, hầu khỏi bị rơi vào những nghịch cảnh khổ đau:
-'Lấy chồng làm lẽ, khổ thay,
'Đi cấy đi cày, chị chẳng kể công.
'Tối đến chị giữ lấy buồng,
'Chị cho manh chiếu, nằm không nhà ngoài.
'Sáng sớm chị gọi 'Bớ Hai!'
'Trở dậy nấu cám, thái khoai, băm bèo.
'Vì chưng cha mẹ tôi nghèo,
'Cho nên tôi phải băm bèo, thái khoai.
Nhận định
Qua các phân tích trên, chúng ta thấy chính nữ giới Việt giữ vai trò chủ chốt trong việc khuyên bảo nhau và khuyên bảo nam giới, từ nhẹ nhàng đến mạnh mẽ, từ tình đến lý; một cách nhân hậu có trước có sau.
Những lời khuyên bảo đi từ lời ru trên võng đong đưa, đến câu hát, điệu hò nơi thôn dã... hẳn đã đi vào tâm thức mọi người ngay từ khi bé bỏng đến lúc lớn khôn, để rồi hình thành một nền đạo lý thực dụng như hoa sen trong bùn, 'tránh làm điều xấu', cũng đủ để được mọi người công nhận là tốt.
Một người chồng không nghiện ngập cờ bạc rượu chè, không rong chơi trai gái, cũng đã đủ trở thành người tốt trong cuộc sống bình thường?
Vì vấn đề xấu phổ biến trong cuộc sống, dễ thấy, dễ tránh. Còn vấn đề tốt thường bị hạn hẹp tầm nhìn theo các giới hạn về không gian và thời gian, dễ bị lạm dụng như kiểu 'đạo đức giả', 'ngụy quân tử'?
Mẫu mực 'quân tử' của Khổng giáo dù sao vẫn còn bị giới hạn vào phạm vi 'hòa nhi bất đồng', trong khi mẫu mực 'đồng bào' của người Việt chan hòa hơn trong cuộc sống xã hội, quốc gia, giúp phát triển tình tự dân tộc một cách sâu rộng, khi mọi cách ngăn bị xóa bỏ một cách hữu tình hữu lý.
Nếu tìm hiểu & nghiên cứu về người Phụ Nữ Việt Nam một cách thấu đáo, sẽ thấy rằng:
'Đỗ đạt - Địa vị - Giàu có, không bằng lấy được một người vợ Việt đảm đang, nếu biết tôn trọng họ để tâm đồng & ý hợp'.
Giáo dục Xây dựng Nữ Quyền
Từ Cổ chí Kim, từ Đông sang Tây, thực tế bao đời cho thấy Nữ Quyền là vấn đề trọng đại nhất đối với sự sinh tồn và phát triển của nhân loại, đã và đang tạo ra những ảnh hưởng quan yếu đối với gia đình, xã hội, quốc gia, dân tộc, nhân loại.
Ảnh hưởng của Nữ Quyền đã khiến hầu hết các tôn giáo do nam giới sáng lập, quá thiên vị nam giới phải tìm cách đương đầu, để rồi nhận những hậu quả xấu tốt khác nhau, có ảnh hưởng lâu dài day dứt mãi không thôi.
Hồi Giáo có chủ trương tận diệt Nữ Quyền, không cho phụ nữ đến nhà thờ, không được đi học, bắt che trùm kín hết toàn thân... Hậu quả là bị suy thoái, bị thành phần nam giới bảo thủ quá khích thống trị, ngăn cản sự phát triển, đến nay vẫn chưa tìm ra lối thoát, rơi vào cảnh để những kẻ hung tàn mượn danh 'Thánh
Chiến' nổ bom bừa bãi, giết người không gớm tay?
Khổng Giáo tìm cách trói chặt phụ nữ, qua những chủ trương Tam tòng & Tứ đức, đã khiến nước Trung Hoa triền miên nội chiến, rơi vào các chế độ độc tôn do nam quyền ngự trị, kìm hãm sự phát triển trí tuệ cho tới tận nay?
Ấn Độ Giáo cũng như Phật Giáo tại Ấn Độ, không có chỗ cho phụ nữ, phải khi phát triển sang Việt Nam... mới có sự xuất hiện của Phật Bà và các nữ bồ tát.
Thiên Chúa Giáo kết tội bà Eve gây sự sụp đổ niềm tin qua việc xúi giục ông Adam ăn táo cấm, chống lại mệnh lệnh của Chúa, để rồi phải dựng hình ảnh Đức Mẹ Maria tuân theo lời Chúa thay thế. Tới nay tôn giáo này vẫn chưa thể chấp nhận cho các nữ tu trở thành linh mục, phải chăng vì câu chuyện của bà Eve? Nhưng có lẽ chính nhờ bà Eve mà nhiều triết gia Tây phương đã có những ý tưởng đối kháng để rồi mới có thể dẫn đến quan niệm về tự do dân chủ, hình thành một hệ thống tư tưởng khai phóng, phát triển tư duy mạnh mẽ và tốt đẹp, giúp triết học, xã hội học, khoa học kỹ thuật... tiến bộ vượt bực.
Riêng với Việt Nam, hình ảnh Mẹ Âu Cơ thay Lạc Long Quân giữ nước, với lời răn dạy đoàn kết qua nhân sinh quan 'Đồng Bào' - tất cả coi nhau như ruột thịt, đã sớm hình thành được một tình cảm chính trị học, xã hội học, tâm lý học rất đặc thù; nối kết mọi người qua niềm tin huyết thống vô cùng tâm huyết, giúp dân tộc Việt vững bền đồng lòng vì non sông, dù trải qua bao lần bị những cường quốc hùng mạnh hàng đầu thế giới xâm lăng, thống trị tìm cách chia để trị bao năm.
Nhờ tình 'Đồng Bào' do Mẹ Âu Cơ khuyên nhủ, mà người Việt đã khai triển thành những câu ca dao thể hiện một truyền thống cao đẹp về sự 'chung', 'cùng':
-'Khôn ngoan đối đáp người ngoài,
'Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.
Để rồi phát huy sâu rộng thành:
-'Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
'Người chung một nước phải thương nhau cùng.
-'Bầu ơi thương lấy bí cùng,
'Tuy rằng khác giống nhưng chung một dàn.
Trong khi đó nhân sinh quan của Trung Quốc và các nước dừng lại nơi chữ 'đồng hạn hẹp', như 'quân tử hòa nhi bất đồng' hoặc chỉ là đồng môn, đồng song, đồng hương... Tệ nhất là Cộng sản chủ trương 'đồng chí' rồi thanh toán bất cứ ai không cùng chí hướng, nào khác gì 'đồng đảng', 'đồng bọn'?!
Chính nhờ hai chữ 'Đồng Bào' của Mẹ Âu Cơ mà dân Việt là dân tộc duy nhất trên thế giới có văn hiến xưng hô với nhau thân mật như họ hàng gần gũi, căn cứ theo tuổi tác mà trở thành bà con cô bác với nhau, qua thứ tự Cụ - Ông Bà - Cô Bác - Chú Thím - Dì Dượng - Anh Em - Con Cháu...
Phật Giáo khi vào Bắc Việt đã bản địa hóa ngay hệ thống xưng hô này, nên mới dễ dàng thuận lòng người, qua lối xưng Sư Cụ, Sư Ông, Sư Bác, Sư Bà, Sư Cô, Chú Tiểu... Thiên Chúa Giáo cũng có Đức Ông, Đức Cha, Sư Huynh...
Lối xưng hô này được Miền Nam phổ biến sâu rộng hơn nữa, qua cách theo hệ thống đặt thêm các tử số cho một mẫu số chung về tuổi tác: Bác có thêm Bác Hai, Bác Ba, Bác Tư... Cô có thêm Cô Ba, Cô Tư, Cô Năm... Anh có thêm Anh Ba, Anh Tư, Anh Năm...
Chính nhờ biết tôn trọng lời dạy của Mẹ Âu Cơ qua đạo lý 'Đồng Bào', mà mặc dù bị va chạm với nhiều nền văn hóa ngoại lai luôn coi trọng và đề cao Nam Giới, người Việt vẫn có tâm thức truyền thống là qúy trọng vai trò của Phụ Nữ - nên mới có thể có những quan tâm giáo dục nhằm xây dựng Nữ Quyền một cách thăng hoa, bằng một nghệ thuật rất độc đáo.
Trong gia đình thì vai trò người Bà, người Mẹ, người Vợ, người Chị, thậm chí các Con Gái, Cháu Gái trưởng thành cũng dễ trở thành 'bá quyền' kiểu 'Bà Cô', nên rất cần sự khuyên răn - hướng dẫn hầu điều chỉnh sao cho hợp tình, hợp lý:
-'Cô cũng như cha,
'Dì cũng như mẹ.
-'Giặc xứ Ngô,
'Không bằng bà cô bên chồng.
-'Một trăm ông chú không lo,
'Chỉ lo mỗi một bà cô lắm mồm!
-'Bưng được miệng chĩnh, miệng vò,
'Nào ai bưng được miệng o, miệng dì.
-'Nhất vợ,
'Nhì Trời.
-'Gậy ông không bằng cồng bà.
Ngoài xã hội, dù hầu hết các triều đình cai trị theo Khổng Giáo triệt để, nhằm bảo vệ giữ vững ngôi thứ vua quan trong cuộc sống đời thường; nhưng trong đời sống tâm linh cao cả vẫn phải công nhận các vị thần của dân chúng, qua việc sắc phong cho các vị phúc thần.
Người Việt lập các nơi thờ phượng các vị phụ nữ có công với quốc gia dân tộc ở khắp nơi, từ bắc chí nam. Để tránh sự nhòm ngó phá phách của các nhà cầm quyền đố kỵ, nhiều nơi thờ phượng một số vị nữ thần Việt đã được dân chúng biến hóa thành những ngôi chùa từ nam chí bắc, như chùa Bà Đá, chùa Bà Đanh, chùa Bà Đen... ngoài các ngôi đền thờ lộng lẫy của Đạo Mẫu.
Sở dĩ phụ nữ Việt có được truyền thống tốt đẹp lâu đời, duy trì địa vị được 'tôn thờ' cao đẹp mãi mãi... là nhờ một nền giáo dục do chính phụ nữ hình thành, phổ biến qua các cổ tích, ca dao, tục ngữ, chuyển tải bằng phương tiện truyền khẩu đầy ý tình đậm đà qua các điệu ru, điệu hát, điệu hò... ngày đêm từ trên cái võng đong đưa trong nhà, đến ngoài cánh đồng lúa xanh tươi bát ngát.
Thật vậy, nếu nghiên cứu về các câu ca dao chính thống, mang tính giáo dục truyền thống của Việt Nam, sẽ thấy đa số là do phụ nữ sáng tác, khác hẳn với các câu do nam giới chịu ảnh hưởng Khổng Giáo, Cộng sản Việt Nam... đặt bày. Nhất là những câu đố oái oăm rất trí tuệ trong vấn đề giáo dục tâm sinh lý, khi đề cập đến các vấn đề giáo dục tâm sinh lý nhạy cảm.
Phải chăng chính nữ giới Việt đã ý thức được vai trò quan yếu của mình trong việc bảo tồn & xây dựng & phát triển nòi giống và căn bản gia đình, xã hội, quốc gia... ngay từ trước thời Hùng Vương, nên đã đảm đương luôn trách nhiệm uốn nắn phái nữ các bổn phận cao cả, đòi hỏi nhiều hy sinh lớn lao, mới có thể được nam giới kính trọng & đề cao - thay vì đòi quyền bình đẳng một cách đơn giản như kiểu Âu Mỹ bấy nay?
Do vậy mà có câu xác định vai trò giáo dục của người phụ nữ Việt:
'Con hư tại mẹ,
'Cháu hư tại bà.
Xin được nêu vài phương cách 'Xây dựng Nữ Quyền' qua nghệ thuật giáo dục một cách rất uyên bác và hiệu quả của chính Nữ Giới Việt từ xa xưa, giúp Nữ Giới Việt vượt qua ngưỡng 'bình đẳng', đạt ngưỡng 'trên bình đẳng' - khi sống được 'tôn thờ', khi chết được 'phụng thờ':
-Một lòng thờ mẹ, kính cha.
A/ Luân lý 'Không xấu cũng đủ tốt'.
Từ hình ảnh 'Sen Trong Bùn' mà không 'hôi tanh mùi bùn' được dùng để làm mẫu mực trong cuộc sống đầy những khó khăn vây bủa, người Việt đã chủ trương giáo dục theo một luân lý thực tế, lấy ngay cái xấu để răn đe cảnh báo, hầu ai nấy cẩn trọng.
Đường lối luân lý này khác với các đường lối giáo dục của nam giới qua các tôn giáo trên thế giới, khi các vị giáo chủ chỉ nêu các điều tự cho là tốt, bắt mọi người phải làm theo.
Giữa 'tránh xa' và 'làm theo', cho thấy 'tránh xa' - tức 'không làm' dễ thực hiện hơn 'phải làm'?
Nữ giới Việt đã ứng dụng cả tình và lý trong việc giáo dục dạy bảo nhau, khi đặt lý tình trên lý tính, nên các chỉ bảo mang tính hướng dẫn nhẹ nhàng - khác với các tôn giáo do nam giới chủ trương, luôn đặt lý trên tình nên các chỉ bảo mang tính bắt buộc nặng nề.
-'Tình ơi, Tính bảo Tình này,
'Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ đi.
'Tính ơi, Tình nhủ một khi,
'Vắng Tình, Tính chớ so bì với ai.
'Tính ơi, Tình dặn một hai,
'Nhớ Tình, Tính chớ ra ngoài bướm ong.
'Tình xứ Bắc, Tính xứ Đông,
'Muốn cho Tình Tính về chung một nhà.
'Đôi bên chớ ngại đường xa,
'Tình tình, Tính tính thuận hòa lo chi?
-'Một tình thiếp giữ lời thề,
'Hai tình chờ đợi đêm khuya lạnh lùng.
'Ba tình gánh cát Bể Đông,
'Bốn tình chờ đợi tơ hồng khéo xe.
'Năm tình nay hội, mai hè,
'Sáu tình gắn bó đi về có nhau.
'Bảy tình trước cũng như sau,
'Tám tình chẳng quản nghèo giầu, chàng ơi.
'Chín tình nhớ mãi khôn nguôi,
'Mười tình ăn kiếp ở đời với nhau.
Nếu các hí họa có công lớn trong việc giáo dục hiện đại, khi tô vẽ phóng đại hình ảnh những cái xấu một cách hài hước; thì từ xa xưa người phụ nữ Việt đã biết dùng các hình ảnh kiểu hí họa trong ca dao để giáo dục:
-'Chè la chè lẩy
'Con gái bảy nghề
'Ngồi lê là một
'Dựa cột là hai
'Đánh bài là ba
'Ăn quà lá bốn
'Trốn việc là năm
'Hay nằm lá sáu
''Láu táu là bảy.
-'Phình phình lớn giữa lớn ra,
'Mẹ ơi con chẳng ở nhà nữa đâu.
'Ở nhà làng bắt mất trâu,
'Cho nên con phải cúi đầu ra đi.
-'Đàn ông tính khí hoang đàng,
'Đàn bà con gái giữ giàng nết na.
'Phòng khi nó bỏ tay ra,
'Nín đi thì tức, nói ra mang điều.
-'Một yêu mắt toét ba vành,
'Hai yên cái thói liếc tình trăng hoa,
'Ba yêu cái bộ răng hà,
'Bốn yêu tiếng nói như là mèo kêu,
'Năm yêu cái lối nói điêu,
'Sáu yêu cơm ít, quà nhiều cũng no,
'Bảy yêu ngủ ngáy o o,
'Tám yêu cái thói chanh chua lắm điều,
'Chín yêu buôn chuyện sáng chiều,
'Mười yêu nước lọ cơm niêu cho chồng.
-'Lỗ mũi em mười tám gánh lông,
'Chồng yêu, chồng bảo tơ hồng trời cho.
'Đêm nằm thì ngáy o o,
'Chồng yêu, chồng bảo ngáy cho vui nhà.
'Đi chợ thì hay ăn quà,
'Chồng yêu, chồng bảo về nhà đỡ cơm.
'Trên đầu những rác cùng rơm,
'Chồng yêu, chồng bảo hoa thơm rắc đầu.
-'Cái cò là cái cò kỳ,
'Ăn cơm nhà dì, uống nước nhà cô.
'Đêm nằm thì ngáy o o,
'Chưa đi đến chợ đã lo ăn quà.
'Hàng bánh, hàng bún nếm qua.
'Củ từ, khoai nướng, cùng là cháo kê.
'Ăn no cắp đít ra về,
'Thấy hàng bún chả lại lê trôn vào.
'Chả này bà bán làm sao?
'Ba đồng hai gắp, lẽ nào không mua.
'Nói dối rằng mua cho chồng,
'Về đến giữa đồng ngả nón ra ăn.
'Bụng đầy, đau quặn, đau quăn,
'Đau lăn, đau lóc, phải nằm thuốc thang.
'Thầy thuốc xem bệnh nói rằng:
'-Bệnh do bội thực vì ăn quá nhiều!
B/ Đạo lý 'Lấy công làm ơn nghiã'
Hình như trên thế giới duy nhất chỉ có nữ giới Việt ý thức được sự ngắn ngủi của nhan sắc, không coi nhan sắc như một lợi khí lâu dài để chinh phục nam giới, nên tìm cách chinh phục tâm lý, tình cảm từ vật chất đến tinh thần:
-'Ăn miếng ngon,
'Chồng con trả người.
-'Bán hàng ăn những chũm cau,
'Chồng con có biết cơ màu này chăng?
-'Anh còn một chút mẹ già,
'Chiếu chăn ai trải? Chén trà ai dâng?
-'Chén trà đã có em dâng,
'Chiếu chăn em trải, chàng đừng có lo.
'Thương chàng lắm nỗi xót xa,
'Một tay dắt díu mẹ già, con thơ.
-'-Mình ơi! trẩy sớm hay trưa?
'Để em gánh gạo tiễn đưa cho mình.
'-Thương em đã đến tháng sinh,
'Ăn ở một mình, trông cậy vào ai?
'Rồi khi sinh gái, sinh trai,
'Sớm khuya mưa nắng lấy ai lo cùng?
'-Sinh gái thì em gả chồng,
'Sinh trai cưới vợ, hết lòng em lo.
Do vậy nữ giới Việt đã tìm lợi khí nơi những giá trị tinh thần và vật chất, ràng buộc không chỉ chồng, mà đến vài ba thế hệ trong cuộc sống của họ.
-'Đi đò tát nước cho chuyên,
'Lấy chồng thì phải giữ duyên cho chồng.
-'Lấy chồng theo thói nhà chồng,
'Bao nhiêu thói cũ trả cùng mẹ cha.
-'Nước lên cho cá lên theo,
'Anh giàu có của, em nghèo có công.
-'Đừng chê em xấu, em đen,
'Vốn em ở đất đồng quen ba mùa.
'Tháng tư cấy lúa tua rua,
'Tháng sáu cấy mùa, tháng chạp cấy chiêm.
'Một năm ba vụ cấy liền,
'Còn gì má phấn, răng đen, hỡi chàng?!
Thay vì không làm gì tích cực, mà chỉ đòi 'bình đẳng' như phụ nữ Âu Mỹ ngày nay, phụ nữ Việt đã dụng công tạo ra những việc hữu ích đòi hỏi nhiều đầu tư cả về tâm lực, trí lực lẫn sức lực - được mệnh danh là 'đảm đang' - giúp phát triển cuộc sống trong các hoàn cảnh từ bình thường đến khó khăn; để rồi phải sau nhiều năm chồng con mới có thể thấy công lao, tri ơn:
-'Nào ai tiếc việc, tham công,
'Lấy chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.
-'Anh đi, em ở lại nhà,
'Hai vai gánh vác mẹ già, con thơ.
'Lầm than chẳng quản nắng mưa,
'Anh đi, anh gắng chen đua với đời.
-'Trời xanh, nước biếc một màu,
'Em cười là khóc, em sầu là tươi!
'Nỗi lòng cực lắm anh ơi!
'Dâu & con ăn ở đôi nơi vẹn toàn.
'Ai ngờ chỉ thắm - dây oan!
'Những tưởng Tần Tấn, mà sang Việt Hồ!
'Một mình năm liệu, bảy lo!
Nhà chồng, nhà vợ, sao cho chu toàn.
C/ Triết lý 'Tình Nghiã'
Nhân sinh quan của người phụ nữ Việt là sống vì 'Tình Nghiã', chứ không chỉ vì 'Tình Ái'.
-'Công cha như núi ngất trời,
'Nghiã mẹ như nước ở ngoài Biển Đông.
'Núi cao biển rộng mênh mông,
'Công cha, Nghiã mẹ ghi lòng chớ quên.
-'Cây khô nghe sấm nứt chồi,
'Đạo chồng nghiã vợ giận rồi lại thương.
-'Tình thương quán cũng như nhà,
'Lều tranh có nghiã hơn tòa ngói cao.
-'Vợ chồng là nghiã tao khang,
'Xuống khe bắt ốc, lên ngàn có nhau.
-'Dù cho đá nát, vàng phai,
'Trăm năm nghiã nặng, chẳng sai ước nguyền.
-'Lấy nhau vì nghiã, vì tình.
'Đói no không ngả, rách lành không nghiêng.
'Lấy nhau vì bạc, vì tiền,
'Đến khi tiền hết, nhân duyên bẽ bàng.
-'Cầu nào cao bằng cầu danh vọng,
'Nghiã nào trọng bằng nghiã chồng con.
'Dù cho nước chảy đá mòn,
'Trăm năm nghiã nặng, sắt son một lòng.
Những bài văn bài thơ Khóc vợ, Thương vợ của các danh nho như Nguyễn Khuyến, Bùi Hữu Nghiã, Trần Tế Xương... phần nào thể hiện tâm tình của nam giới Việt với nữ giới Việt.
Triết gia Kant cho rằng: 'Tình yêu tính dục làm cho người được yêu trở thành đối tượng của sự thèm khát; nên ngay sau khi sự thèm khát được thỏa mãn, người kia bị gạt sang một bên, như kiểu vắt chanh bỏ vỏ'.
Đây chính là tình cảnh của các phụ nữ Âu Mỹ bấy nay, khi quá thiên về tình ái mang đậm sắc thái tình dục; nên khi sự quyến rũ không còn liền bị bỏ rơi không thương tiếc khi về già, nơi các viện dưỡng lão?!
Trong khi phụ nữ Việt từ xa xưa đã biết xử thế khôn ngoan, dụng công biến tình ái thành tình nghiã, nên được phái nam tôn trọng rất mực qua nhiều thế hệ, từ ông cha đến chồng con, nhiều khi cả đến cháu chắt:
-'Chẳng thà thất nghiã với chồng,
'Không thể để mẹ nằm không một mình.
-'Bông ngâu rụng xuống cội ngâu,
'Em còn cha mẹ, dám đâu tự mình.
-'Mỗi đêm khấn vái ông Trời,
'Cầu cho cha mẹ ở đời với con.
-'Tìm vàng, tìm bạc còn ra,
'Ai ơi tìm mẹ, tìm cha khó tìm.
Nhận định
Nếu nam giới thường chỉ gây được ảnh hưởng trực tiếp qua những thế lực do mình tạo ra nhất thời, như tiền bạc, danh vọng, vẻ quyến rũ... thì nữ giới Việt sâu sắc hơn, khi chỉ dùng vẻ quyến rũ tạo sự thu hút nhất thời ban đầu, để rồi dần dần thực hiện cả một kế hoạch chinh phục dài lâu từ vật chất đến tinh thần, khiến đối tượng bị chế ngự lúc nào không hay, bị ràng buộc mà tâm phục & khẩu phục.
Chỉ khi ra sống ở Âu - Mỹ - Úc, chứng kiến cảnh các bậc cha mẹ già người nước ngoài phải sống trong các viện dưỡng lão, khắc khoải mong chờ con cái tới thăm - để so sánh với hình ảnh xum họp vui vầy bên nhau giữa nhiều thế hệ của người Việt, mới thấy được sự hy sinh thầm lặng nhưng rất siêu đẳng của Nữ giới Việt tạo được đối với Nam giới, mà thấm thiá câu tục ngữ:
'Một mẹ già,
'Bằng 3 con ở!
Người Việt từ xa xưa đã thể hiện khả năng độc đáo về tướng pháp, khi truyền miệng dạy bảo nhau những kiến thức về tướng số, tử vi, phong thủy... qua ca dao, tục ngữ, sự tích, một cách chính xác, uyên bác, khoa học... đến mức độ ít ai ngờ.
Ngay trong một số sử sách, khi viết về các vị vua và danh sĩ, danh tướng... thường thuật lại một số câu về nhân tướng học và địa lý phong thủy của các nhân vật này, do dân gian truyền tụng:
'Khi vua mới sinh có ánh sáng lạ đầy nhà, trang mạo khác thường, có 3 nốt ruồi ở lưng, thầy tướng cho là lạ, bảo có thể làm chủ một phương, nên mới đặt tên là Quyền'.
(Đại Việt Sử Ký toàn thư - viết về Ngô Quyền)
'Vua sinh ra thiên tư tuyệt đẹp, thần sắc khác thường, vẻ người tuấn tú, nhân hậu, rạng rỡ, nghiêm trang, Thực là bậc thông minh xứng đáng làm vua, bậc trí dũng đủ để giữ nước'.
(Đại Việt Sử Ký toàn thư - viết về Lê Thánh Tông)
'Dã sử nói: ''Mẹ vua ở quanh quẩn trong rừng Cổ Pháp hốt nhiên chết, kiến mối xông đất đầy thành mả, cao 7 thước, được chỗ đất tố chung linh. Về sau vua về yết lăng, trông thấy cây cối xanh tốt, loài chim bay liệng... cảm động rớt nước mắt, sai đo quanh mộ mỗi bên vài mươi thước làm cấm địa.
(Việt Sử Tiêu Án - viết về Lý Công Uẩn)
...
Điều đáng lưu ý, người giỏi về lý số đầu tiên của Việt Nam được dân gian truyền tụng trước đây, lại là một phụ nữ. Đó là bà mẹ của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm - người từng được coi là nhân vật vĩ đại nhất về lý số của Việt Nam, tác giả Sấm Ký rất linh nghiệm nhiều điều cả trăm năm về sau.
Tương truyền mẹ của Trạng Trình rất giỏi về tướng pháp, muốn chọn chồng phải là người có qúy tướng sinh con làm vua. Nhưng bà đã thất vọng lúc sinh Trạng Trình thấy tướng chỉ đỗ trạng nguyên. Bà lấy người chồng thứ 2, sinh ra Phùng Khắc Khoan, cũng đỗ Trạng nguyên mà thôi?! Tới khi gặp Mạc Đăng Dung quá muộn màng, bà mới biết số mình chỉ đến thế!
Phải chăng nhờ được mẹ truyền cho tâm pháp, mà Nguyễn Bỉnh Khiêm mới có kiến thức xuất chúng hơn cả ngành lý số của Trung Quốc, khi có thể đạt tới trình độ tiên tri viết ra Sấm Ký - tiên đoán một số sự kiện quan trọng cả mấy trăm năm sau, ngoài việc khuyên răn giúp các thế lực tương tranh đương thời như Lê - Trịnh - Nguyễn - Mạc bớt đi nhiều cuộc thảm sát tương tàn?
Như chỉ dẫn cho Nguyễn Hoàng vào Nam lập nghiệp, không chỉ đúng với họ Nguyễn, mà còn với cả chúng ta sau 1954 và ngày nay khi Trung Cộng đang thôn tính Cộng sản Việt Nam:
-'Hoành Sơn nhất đái,
'Vạn đại dung thân.
(Núi Hoành một dải,
Muôn đời yên thân)
Như việc Toàn quyền Pháp Pasquier bị tai nạn phi cơ:
-'Bát Kê chết ở giữa trời.
Cũng như rất nhiều câu khó hiểu được truyền tụng, chỉ sau khi sự việc diễn ra mới biết, như việc sau năm 1975, người Việt Miền Nam phải vượt biển Thái Bình dương tìm tự do:
'Mười phần chết 7 còn 3,
'Chết 2 còn 1, mới ra Thái Bình.
Trong lịch sử nhân loại chỉ Nguyễn Bỉnh Khiêm (1492 - 1587) và Nostradamus (1503 -1566) mới có được trình độ viết Sấm Ký tiên đoán thời thế đương thời và nhiều trăm năm về sau. Một là người Việt Nam, một là người Pháp sống cùng thời; trong khi các khoa lý số như Tử vi, Bói chỉ tay, Bói bài, Nhân tướng... của các nước Đông phương và Tây phương chỉ dừng lại ở sự bói toán số mệnh của từng người nhỏ nhoi mà thôi?
Vì vậy nếu phân tích các câu ca dao & tục ngữ Việt Nam nói về tướng số... sẽ nhận thấy đây là những khẳng định rõ ràng một cách khoa học, với những nhận xét mang tính phân tích & tổng hợp cũng như diễn dịch & quy nạp của khoa Luận lý học, có thể áp dụng lâu dài, gần giống tính cách của Sấm Ký... Và đặc biệt sẽ thấy phần nhiều do nữ giới Việt làm ra, để chỉ dẫn nhau chọn chồng, hoặc chọn dâu rể cho con cái.
Do thuộc nhiều ca dao - tục ngữ - sự tích về tướng pháp, có thể tự xem tướng một cách tinh tường, mà phụ nữ Việt ngày xưa ít tin vào thầy bói như ngày nay:
-'No ăn đắt bói,
'Đói ăn đắt khoai.
-'Tiền bạc chẳng có ai cho,
'Đem tiền xem bói, thêm lo vào mình.
-'Tử vi xem số cho người,
'Số thầy thì để cho ruồi nó bâu.
-'Hòn đất mà biết nói năng,
'Thì thầy địa lý hàm răng chẳng còn.
Phương pháp Xem Tướng:
Chỉ bằng vài nhận xét đơn giản nhưng cực kỳ sắc bén, rồi dùng vài câu văn vần dễ hiểu dễ nhớ diễn tả theo phương pháp phân tích & tổng hợp, người Việt đã khắc họa ngay được những nét điển hình về tính nết qua tướng mạo con người, rồi diễn dịch & quy nạp đưa tới các nhận định về tốt xấu, họa phúc.
Những câu tục ngữ & ca dao về tướng số là những nhận thức đạt trình độ của các nhận thức khoa học, do đã phải trải qua một quá trình nhận xét suy luận dài lâu, được kiểm chứng thấy đúng với nhiều thế hệ, được truyền tụng, rồi được tin tưởng mới trở thành các xác quyết - tương tự các định luật của khoa học thực nghiệm.
Như vậy tục ngữ & ca dao về tướng số của Việt Nam là một pho sách do nhiều người - nhiều đời nghiên cứu, soạn thảo theo phương pháp tương tự môn khoa học thực nghiệm; phong phú hơn so với các sách tướng số - khách quan hơn so với các thầy tướng số?
**Tướng Mắt:
Mắt là 'thần', tiếng nói là 'khí', cả hai biểu lộ sức khỏe - nên ngày nay từ xa qua điện thoại, ta có thể biết sức khỏe của người đang nói chuyện với mình ra sao; còn khi gần chỉ cần nhìn ánh mắt mạnh yếu (tinh anh hoặc lờ đờ...) mà biết tình trạng sức khỏe của người đối diện, cũng như sự thọ yểu. Riêng mắt còn bộc lộ tư tưởng - tình cảm - tâm lý của mỗi người, nên dựa theo tướng mắt có thể biết người tốt xấu ra sao, thời vận như thế nào.
Mắt được phụ nữ Việt dùng để quan sát về nhân tướng một cách kỹ lưỡng, qua các cách nhìn như 'lựa' - 'xem' - 'kén'... rất chi li tinh tế:
-'Lựa được con dâu,
'sâu con mắt.
-'Lấy vợ xem tông,
'Lấy chồng kén giống.
-'Lụa tốt xem biên,
'Người hiền xem tướng.
Người Việt cũng như khoa tướng pháp về 'hình tướng' thường so sánh mắt người với mắt của của một số thú vật, để có thể diễn dịch - loại suy sự tốt xấu:
-'Mắt ếch.
-'Trơ mắt ếch.
-'Mắt rắn ráo.
-'Mắt lợn luộc.
-'Mắt cá chày.
-'Mắt bồ câu.
-'Mắt diều hâu.
-'Mắt cú vọ.
-'Mắt phượng mày ngài.
-'Mắt giơi, mày chuột.
-'Mắt ốc nhồi, môi chuối mắn.
'Tinh tướng' về mắt, còn được coi là 'thần' của mắt, thể hiện rõ tâm tính, cũng được nêu ra:
-'Mắt la, mày lét.
-'Mắt trước, mắt sau.
-'To mắt hay nói ngang.
-'Mắt phượng, mày cung,
'Suốt đời hanh thông.
-'Trên thu ba, dưới ba thu,
'Con mắt lóng lánh chẳng tu được nào.
-'Những người ti hí mắt lươn,
'Trai thì trộm cướp, gái buôn chồng người.
-'Những người con mắt lá răm,
'Lông mày lá liễu, đáng trăm quan tiền.
-'Người khôn con mắt đen sì,
'Người dại con mắt đổ chì, đổ thau.
-'Người ngay con mắt dịu hiền,
'Người gian con mắt láo liên khắp nhà.
-'Mắt tròn dưới mí láng sưng,
'Là kẻ bợm rượu, tàn hung ai bì.
-'Con heo mắt trắng thì nuôi,
'Còn người mắt trắng đánh rồi đuổi đi.
-'Mắt lờ đờ như người say rượu,
'Hoặc đỏ hoe, phải liệu mà chơi.
-'Trán cao, mắt sáng phân minh,
'Là người học rộng, công danh nhiều bề.
-'Mắt dài, mày ngắn bất bình,
'Mày dài mắt ngắn anh em vẹn toàn.
-'Mắt ngước, chân bước nhẹ nhàng,
'Tướng đi khoan nhã, rõ ràng hiền nhân.
-'Mắt trắng, môi thâm, da thiết bì,
'Người nhiều lông bụng, vô nghì chớ thân.
Và cho rằng có thể đánh giá mỗi người, khi chỉ cần nhìn qua con mắt, ánh mắt là đủ:
'Con mắt là mặt đồng cân,
'Nhìn coi là biết, chẳng cần đâu xa.
**Tướng Miệng:
Miệng là nơi phát âm thanh, thể hiện khí lực và tinh lực, không chỉ bao hàm các biểu hiện về sức khỏe, mà còn về sự tốt xấu qua giao tế với những nét đặc thù của tâm lý, tư tưởng, tình cảm... bằng sự diễn đạt. Nên qua miệng, có thể tìm hiểu số mệnh, vận hạn.
-'Miệng cá ngão.
-'Miệng lằn, lưỡi mối.
-'Miệng hùm gan sứa.
-'Miệng loa, mép giải.
-'Miệng hỏa lò ăn hết cơ nghiệp.
-'Khôn ra miệng,
'Dại ra tay.
-'Miệng thơn thớt,
'Dạ ớt ngâm.
-'Lỗ miệng khoan thai,
'Cuộc đời thong thả.
-'Đàn ông miệng rộng thì sang,
'Đàn bà miệng rộng tan hoang cửa nhà.
-'Miệng rộng, môi mỏng, liếc ngang,
'Con gái như thế chẳng màng làm chi.
-'Những người chép miệng thở dài,
'Gặp nhiều khốn khó, bi ai cả đời.
-'Tiếng nói rít qua kẽ răng,
'Là người nham hiểm sánh bằng sói lang.
-'Người hay lẩm bẩm một mình,
'Giàu sang chẳng tới, chỉ sinh kém hèn.
-'Trai mà nói giọng đàn bà,
'Tính tình nhu nhược, còn là long đong.
-'Chim khôn kêu tiếng rảnh rang,
'Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.
-'Đàn bà chưa nói đã cười,
'Nhân duyên vất vả, cuộc đời truân chuyên.
-'Trán cao, miệng rộng, mũi dài,
'Có khoa ăn nói, ít ai sánh bằng.
-'Đàn bà lanh lảnh tiếng đồng,
'Một là sát chồng, hai là hại con.
-'Người thanh tiếng nói cũng thanh,
'Chuông kêu khẽ đánh bên thành cũng kêu.
-'Giọng nói răm rắp tiếng dư,
'Trai thì can đảm, gái ư gan lì.
-'Chẳng tham nhà ngói rung rinh,
'Tham vì một nỗi anh xinh miệng cười.
'Miệng cười em đáng mấy mươi,
'Chân đi đáng nén, miệng cười đáng trăm.
**Tướng Môi:
Môi cần cân xứng với miệng mới tốt, môi mỏng thường phản ứng mau lẹ, nhưng thiếu điềm tĩnh; môi dầy tuy phản ứng chậm chạp, nhưng điềm đạm, ít sơ sót. Môi trên liên quan đến tiềm thức, tình cảm; môi dưới thể hiện các khả năng ứng phó trên.
-'Cua thâm càng,
'Nàng thâm môi.
-'Cong môi hay hớt,
'Mỏng môi hay hờn.
-'Môi dày, miệng rộng cân phân,
'Nhơn trung sâu rộng, tánh luôn khoan hòa.
-'Môi mỏng hay nói sai ngoa,
'Dạy con trái lẽ, dễ ra hoang đàng.
-'Những người thành thật môi dày,
'Lại thêm ít nói, lòng đầy nghiã nhân.
-'Hai môi không giữ kín răng,
'Là người yểu tướng, nói năng hỗn hào.
**Tướng Răng:
Răng thể hiện sức khỏe, nếu răng tốt giúp tiêu hóa tốt, ảnh hưởng tới khí & thần & lực - tức sức khỏe và tuổi thọ. Một khi răng tốt và đẹp, còn giúp giao tế thuận lợi mà dễ thành công, hiển đạt.
-'Răng chuối tiêu,
'Lưỡi núc nác.
-'Răng đen bôi bác,
'Răng vàng lịch lãm.
-'Cái răng, cái tóc,
'Là góc con người.
-'Trai mà có cặp răng nanh,
'Gan dạ, chịu đựng, khôn lanh đủ điều.
-'Răng cao, miệng nhỏ, điêu ngoa,
'Răng thấp, môi kín, thương cha, thương chồng.
-'Răng thưa, da trắng, gái hay,
'Răng thưa, mặt sẫm, đổi thay chuyện tình.
**Tướng Tai:
Tai liên quan đến gia vận, sẽ tốt đẹp nếu tròn trịa, dày chắc. Trái tai dày lớn biểu hiện của sự phú qúy và sống lâu.
-'Những người tai mỏng mà mềm,
'Là phường xấc láo, lại thêm gian tà.
-'Những người tai ngửa ra sau,
'Tướng hèn, mà lại cứng đầu, chậm nghe.
-'Trái tai như hạt châu thòng,
'Có thành, có quách, dày hồng sắc tươi,
'Là người phú qúy thảnh thơi,
'Phong lưu, tao nhã, suốt đời hanh thông.
**Tướng Tóc:
Tóc thể hiện vận mạng phú qúy, khi có sự thay đổi bất thường nên quan tâm về sức khỏe cũng như thời vận.
-'Tóc mây, mày nguyệt.
-'Cái răng, cái tóc,
'Là góc con người.
-'Cá tươi xem ở hai mang,
'Người khôn xem ở đôi hàng tóc mai.
-'Tóc mai dài xuống mang tai,
'Là người khó tánh, ít ai vừa lòng.
-'Tóc thưa dài mướt, trắng da,
'Thuộc hàng đài các, lượt là phu nhân.
-'Tóc đen, thưa rộng mà dài,
'Vuông tròn khuôn mặt, là trai anh hùng.
-'Đàn ông ít tóc an nhàn,
'Đàn bà ít tóc dở dang chuyện tình.
-'Đàn bà nhiều tóc thì sang,
'Đàn ông nhiều tóc chỉ mang nặng đầu.
-'Đầu trọc như không có tóc,
'Kém công danh lao lực về sau.
-'Người đen, mà ốm lại cao,
'Tóc quăn, môi lớn, lao đao tháng ngày.
-'Tôi đã biết vợ anh rồi,
'Quăn quăn tóc trán là người cả ghen.
**Tướng Râu:
Râu thể hiện sức khỏe và tính tình, là yếu tố của sự thành công đối với nam giới.
-'Rậm râu, sâu mắt.
-'Những người râu mép vểnh ra,
'Mép dày, môi mỏng, rất là tinh khôn.
-'Râu rià, lông ngực hai bên,
'Chẳng phường phản bạn, cũng tên nịnh thần.
-'Đàn ông mà kém bộ râu,
'Văn chương cũng dở, công hầu đừng mong.
-'Chẳng tham ruộng cả, ao sâu,
'Tham vì anh có bộ râu đẹp hiền.
**Tướng Mặt:
Theo tướng pháp, mặt tập trung các bộ phận quan yếu như Thị giác - Thính giác - Vị giác - Khứu giác nên cần sự cân đối đầy đặn. 'Mặt ngay - Thân tịnh - Khí hòa' là nền tảng phú qúy.
-'Mặt dơi, tai chuột.
-'Mặt hoa, da phấn.
-'Người khôn dồn ra mặt.
-'Trông mặt mà bắt hình dong,
'Con lợn có béo, cỗ lòng mới ngon.
-'Mặt dài, tai nhỏ vui chơi.
'Mặt to, tai ngắn một đời đắng cay.
-Những người mặt nặng như mo,
'Chân đi nặng trịch, có cho chẳng thèm.
-'Những người mặt nạc đóm dầy,
'Mo nang trôi sấp, biết ngày nào khôn.
-'Vai ngang, mặt lớn, tiếng to,
'Nhiều chồng mà lúc về già vẫn không.
Tuy nhiên, Người Việt lại có nhận định:
'Tướng mặt không bằng tướng tâm.
**Tướng Trán:
Trán biểu hiện quan lộc, thể hiện địa vị, chức nghiệp.
-'Đàn ông gân trán nổi cao,
'Tính tình nóng nảy, dạt dào ái ân.
-Trán cao mà đầu lại vuông,
'Văn chương khoa bảng có nhường ai đâu.
-Má hồng, trán bóng, cười duyên,
'Tính tình dẫu tốt, khó bền tuổi cao.
-'Đàn ông trán dựng có tài,
'Đàn bà trán dựng suốt đời rảnh rang.
**Tướng Mũi:
Mũi biểu hiện tài bạch, thể hiện tiền bạc, của cải.
-'Lỗ mũi mà hỉnh ngửa lên,
'Bạc tiền chồng chất một bên chẳng còn.
-'Lỗ mũi mỏng, đầu cong nhọn hoắt,
'Ắt tham lam, hiểm độc, gian phi.
'Tướng này muốn tránh suy vi,
'Tu tâm dưỡng tính nhiều bề mới yên.
**Tướng Tay:
Người Việt để ý đến hai tay của mỗi người, vì tay cũng thể hiện sự làm việc, biểu hiện một số tính tình và trạng thái tâm lý khi tinh thần bị căng thẳng.
-'Khôn ra miệng,
'Dại ra tay.
-Tay dùi đục,
'Chân bàn chổi.
-'Tay bắp cày,
'Chân bàn cuốc.
-'Tay làm hàm nhai,
'Tay quai miệng trễ.
-'Ngón tay búp măng,
'Sống nhàn sống nhã.
-'Ngón tay dùi đục,
'Làm cực nuôi thân.
-'Nên ra tay kiếm, tay cờ,
'Chẳng nên thì chớ, chẳng nhờ tay ai.
**Tướng vú và lưng:
Đây là hai nét tướng quan trọng của phụ nữ, được dùng để đánh giá về sự sinh nở và chăm sóc chồng con:
-'Lớn vú, bụ con.
-'Lưng chữ Cụ,
'Vú chữ Tâm.
-'Vú bánh dầy,
'Má bánh đúc.
-'Mông bự, vú to,
'Cho chẳng lấy.
-'Những người thắt đáy lưng ong,
'Vừa khéo chiều chồng, vừa khéo nuôi con..
Nhận định:
Ngoài bìa cuốn Nhân Tướng Học của Hy Trương, có ghi câu:
'Tướng tùy Tâm sinh,
'Tướng tùy Tâm diệt.
Cho thấy Tâm có thể thay đổi tướng cũng như số, nên vấn đề 'Tu Tâm - Dưỡng Tính' rất quan trong trong cuộc sống. Theo khoa Tử vi, vận hạn người ta luân chuyển theo chu kỳ 12 năm với nhiều tốt xấu biến đổi, nếu biết tích thiện sẽ bớt tai ương, gặp nhiều điều lành.
Kẻ viết qua được tuổi cổ lai hy, trải nhiều phen nguy nan thập tử nhất sinh với bom đạn trong chiến tranh - sóng gió khi vượt biển, do vận nước lao lung, ngẫm nghĩ lại, thấy quả là nhờ 'ở hiền gặp lành', cũng như nhờ phúc đức của dòng họ, gia đình ban cho - như câu 'có phúc - có phận'.
Do vậy các câu ca dao về tướng số, ngoài việc dùng để xét đoán người, còn nên coi như những kinh nghiệm giáo dục nhân luân, để tự cải tướng - đổi số vậy.
Phương pháp xem số:
Ngoài tướng, Người Việt còn có những kinh nghiệm về vận số của con người, coi số quan trọng hơn cả tướng. Nhằm cổ võ an ủi người kém may mắn, còn cho rằng nếu ăn ở tử tế có thể cải đổi và chiến thắng số mệnh:
-'Tốt số hơn khôn.
-'Tốt số hơn bố giàu.
-'Làm giàu có số,
'Ăn giỗ có phần.
-'Dãy dọc, tòa ngang,
'Giàu sang có số.
-'Số giàu đem đến dửng dưng,
'Lọ là con mắt tráo trưng mới giàu.
-'Số giàu, tay trắng cũng giàu,
'Số nghèo chín đụn, mười trâu cũng nghèo.
Theo người Việt, nếu biết tôn trọng một số việc kiêng cữ, có thể sẽ giảm bớt được cái xấu, trở nên tốt:
-'Vợ chồng cùng tuổi,
'Ngồi ruỗi mà ăn.
-'Lấy vợ kiêng tuổi đàn bà.
'Làm nhà kiêng đuổi đàn ông.
-'Ra ngõ gặp gái,
'Mọi cái không hay.
'Ra ngõ gặp trai,
'Gặp may nhiều bề.
(Ở đây xin mạn phép được kể lại một câu chuyện vui của bản thân: Một lần đi chơi mà chược, vừa bước ra cửa gặp ngay một bà hàng xóm mang bầu vượt ngực, nên trong bụng cầm chắc là sẽ thua. Không ngờ hôm đó ù tới 2 ván khản khản nên được lớn. Trên đường về ngẫm mãi mới đoán có thể bà này mang bầu con trai? Nghĩ điều này rồi vui miệng nói với bà hàng xóm là bà sẽ sinh con trai. Thời gian đó chưa có cách thử nghiệm sinh trai gái, nên khi bà hàng xóm sinh trai thật, tôi bỗng nhiên được khen là có tài đoán thai, bị vài người nhờ đoán thai không biết đâu mà lần, đành phải thú thật sự việc!)
Người Việt rất chú ý và tin tưởng vào một số điềm tốt xấu báo trước, để đón nhận hoặc né tránh:
-'Thứ nhất đom đóm vào nhà,
'Thứ nhì chuột rúc, thứ ba hoa đèn.
Về thời gian, được kiêng cữ rất mực:
-'Năm Tỵ, năm Ngọ,
'Ai có nấy ăn.
-Năm Thìn, năm Tỵ,
'Chị chẳng nhìn em.
-'Chớ đi ngày 7,
'Chớ về ngày 3.
-'Mồng 5, 14, 23,
'Đi chơi cũng lỗ, nữa là đi buôn.
**Về Phong Thủy:
Việt Nam có một nhân vật nổi tiếng giỏi về Phong Thủy là ông Tả Ao. Do các nhà Nho vọng ngoại ghi chép, nên đã gán cho ông Tả Ao phải học nghề từ người Tàu? Trong khi đó, tương truyền một tướng Tàu rất giỏi về Địa lý Phong Thủy là Cao Biền lúc qua Việt Nam thấy địa lý phong thủy quá tốt, quá sợ hãi, tìm cách trấn yểm để mong ngự trị dài lâu, nhưng bị các thầy địa lý phong thủy của Việt Nam hóa giải hết - mà các sự tích thường mô tả qua các vị thần linh bản địa xuất hiện làm việc này - nên trải mấy ngàn năm liên tiếp bị đô hộ, Người Việt vẫn có thể vùng lên giành lại độc lập:
-'Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non'.
Nghiên cứu khoảng dăm chục cuốn sách Tàu - Tây - Việt - Ấn Độ... viết về Phong Thủy, thì thấy câu tục ngữ sau đây nói đúng:
-'Hòn đất mà biết nói năng,
'Thì thầy Địa lý hàm răng chẳng còn.
Theo thiển ý chúng tôi, tới nơi nào thấy đất đai màu mỡ, cây cỏ tươi tốt, chim chóc bay nhảy hót vang lừng, ắt đó là nơi có vượng khí. Còn cho dù xem thấy hợp hướng, hợp tuổi... mà đất đai cằn cỗi, cây cỏ xác sơ, chim chóc vắng bóng, thì ắt là nơi chẳng thể tốt lành.
Trước đây khá lâu, các chuyên gia Đức đã dùng loại máy đo các tia bức xạ để phát hiện ra những 'Tia Đất'. Đó là những tia phát ra từ dưới lòng đất, tương tự những tia địa từ trường, do các kẽ đất và các biến chuyển dưới lòng đất phát sinh ra. Cụ thể như từ trường trái đất là một loại tia rất mạnh, có ảnh hưởng quan trọng đến sức khỏe người và vật, tác động vào sự lưu thông máu trong cơ thể, gây ra các chứng bệnh nhức đầu, khó thở, thần kinh, huyết áp, rối loạn về tuần hoàn - tiêu hóa - hô hấp... đau cơ bắp, mất sức đề kháng... giấc ngủ không yên, có nhiều ác mộng. Một khi sức khỏe thể xác xấu, sẽ không thể làm việc tốt, đưa đến thất bại. Một khi tinh thần kém sáng suốt, dễ sinh cáu giận, gây bất hòa từ trong gia đình đến ngoài xã hội, đưa đến đổ vỡ.
Ở Ba Lan hiện nay có hẳn một Công ty phụ trách Xử lý các tia năng lượng xấu, dùng loại máy đo các Tia Xấu từ dưới đất và từ những dụng cụ có nhiều từ tính như Điện thoại di động, Tivi, Computer... để xác định sự nguy hại đến sức khỏe nhiều hay ít ra sao.
Nay khoa học đã xác minh đuợc rằng, nếu dùng quá nhiều điện thoại di động, sẽ bị các tia điện tử trong điện thoại gây ra nhiều chứng bệnh nguy hiểm. Đàn ông dùng labtop đặt trên đùi lâu dài, sẽ ảnh hưởng đến tinh trùng mà có thể bị vô sinh...
Như vậy, những nơi chim chóc vắng vẻ, cây cỏ không tươi tốt có thể là những nơi có những Tia Đất xấu, nếu chúng ta làm nhà, đặt giường ngủ hay bàn ăn, bàn làm việc vào những chỗ này, sẽ bị các chứng bệnh kể trên, sức khỏe suy yếu mà gây ra các bất ổn trong gia đình, bất thường trong công việc làm?
Ngoài ra, sự chấn động mạnh và thường xuyên của bầu không khí gây ra do xe chạy, âm thanh ồn ào... cũng tác động xấu đến con người, nên địa lý phong thủy mới khuyên nên tránh ở những căn nhà bị đường đâm thẳng vào, cạnh đường lớn.
Để tâm nghiên cứu về cuộc sống ở những căn nhà loại này, có thể thấy người trong nhà thường dễ cáu bẳn mà ảnh hưởng xấu đến không khí sinh hoạt trong gia đình, ngoài xã hội. Khoa học hiện đại đã chứng minh sự chấn động của âm thanh, các khuấy động trong khí quyển... tạo ra các tần số sin động ngắn dồn dập mạnh hơn bình thường, gây nhức đầu, khó thở, bất an... chim chóc có bộ thần kinh rất linh mẫn, nên ít héo lánh tới những nơi 'phong thủy' như vậy.
Có thể do các yếu tố trên, mà tục ngữ Việt đã tóm gọn khoa Địa lý Phong Thủy chỉ vào vài câu mà thôi, nhưng đầy đủ chính xác:
-'Đất lành, chim đậu.
-'Đất thơm, cò đậu.
-'Đất cam thảo,
'Dân lão thần.
-'Đất tốt trồng cây rườm rà,
'Những người thanh lịch nói ra qúy quyền.
-'Đất xấu trồng cây khẳng khiu,
'Những người thô tục nói điều phàm phu.
Và quan niệm về đất tốt chẳng những giúp người ta sống khỏe mạnh, ăn ra làm nên, mà còn giúp phấn phát lâu dài nhờ mồ mả ông cha:
-'Đàn anh có mả,
'Kẻ cả có dòng.
-'Sống về mồ mả,
'Chẳng ai sống về cả bát cơm.
Nhận Định
Ngày nay có nhiều khoa bói toán khác nhau, được tin tưởng.
Chúng tôi đã để ra nhiều chục năm nghiên cứu, nhận thấy một số điều đáng quan tâm về mấy khoa bói toán phổ thông như sau:
Khoa Bói Bài, xin Quẻ Thẻ...
Hai khoa này mang đặc tính biến đổi tùy tiện bất thường, nên có lẽ chỉ linh nghiệm khi người xem ở vào trạng thái tinh thần sáng suốt, kèm theo niềm tin mạnh mẽ... và nhất là 'may mắn'?
Khoa Bói Chỉ Tay
Khoa này khá kỳ bí, khi qua những đường chỉ và những dấu hiệu khác nhau trong bàn tay, có thể đọc biết được nhiều điều về tâm lý - tình cảm - sức khỏe - một số biến cố quan trọng trong đời. Tuy nhiên, chỉ tay thường có những thay đổi, khi chúng ta tạo ra các điều tốt xấu trong cuộc sống. Do vậy xem chỉ tay cần chú ý đến các sự thay đổi rất nhỏ như xuất hiện một đường chỉ mới, hay một dấu hiệu mới li ti... thể hiện một sự báo hiệu nào đó. Nên chỉ tay chỉ đúng trong khoảng thời gian ngắn khoảng 6 tháng khi xem, về lâu dài sẽ có những thay đổi - nhất là khi lập gia đình, khởi nghiệp, sinh con sẽ tạo ra các ảnh hưởng như trong khoa tử vi vậy.
Khoa Tử Vi
Thường cách xem bấy nay chỉ dừng lại ở trình độ nhận biết những gì trong lá số biểu hiện mà cho là bất di bất dịch, nên các 'thày' thường phán khá vô trách nhiệm về vận hạn làm cho người xem lo sợ; khi chưa đạt trình độ có thể thấy và hiểu về những biến dịch trong lá số - lúc người có lá số kết thêm bạn, lập gia đình, sinh thêm com, mua căn nhà mới hoặc dọn nhà đến một nơi ở mới... khiến cho người xem cả tin sẽ bị ảnh hưởng tai hại.
Tử Vi có tới 12 cung, biểu hiện cho 12 sự liên quan khác nhau trong cuộc sống, nên biến đổi tốt xấu không ngừng theo thời gian và không gian của cuộc đời mỗi người:
**Cung Mệnh thể hiện số mệnh tiền định từ lúc mới sinh ra cho tới khi 30 tuổi, có những ngôi sao lớn nhỏ, chính & chiếu vần vũ, để người mang số có thể tự phát triển theo chiều hướng tốt hay xấu. Nếu thấy cung bản mệnh xấu, cần tu tâm dưỡng tính, theo đuổi các nghề nghiệp ít nguy hiểm, ít liên quan tới các tệ nạn... Xem kỹ sẽ thấy các tai họa được báo trước qua tính cách của các sao xấu để dè chừng, né tránh, chịu đựng... nhất là vào các năm xui tháng hạn.
**Cung Thân thể hiện số mệnh từ sau 30 tuổi, nên phải đoán từ cơ sở những gì đang có lúc 30 tuổi theo chiều hướng phát triển tốt xấu của các ngôi sao & bộ sao trong lá số.
Và 'Nhân định thắng thiên' qua câu:
'Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều'
là do người có lá số biết ăn ở nhân đức, tạo được nhiều điều tốt, từ bỏ điều xấu, được ai nấy mến mộ, ít bị ganh ghét, mà giảm bớt tai ương.
Ngoài ra ảnh hưởng của các cung còn lại rất sinh động, qua các liên hệ mật thiết trong đời sống mỗi người:
**Cung Phúc Đức được coi là quan trọng nhất, nhất là đối với phụ nữ, nên có những câu:
'Phúc Đức tại mẫu,
'Là lời thế gian.
-'Con hư tại Mẹ,
'Cháu hư tại Bà.
-'Cây xanh thì lá cũng xanh,
'Cha mẹ hiền lành để phúc cho con.
Người Việt có quan niệm 'Cha sinh - Mẹ dưỡng', 'Công Cha - Nghiã Mẹ', vì người Mẹ phải bú mớm nuôi con, ôm ấp ru con bằng những lời ru nhân nghiã, uốn nắn ngay từ thuở ấu thơ... có ảnh hưởng đến tâm lý, tình cảm... để hình thành tâm thức những ý nghĩ và hành động trong suốt cuộc đời.
Thế nên tuy Phúc Đức là do dòng họ, nhưng người Mẹ lại giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành - duy trì - phát triển, qua cách răn dạy hàng ngày. Cho nên chỉ cần xem cung Phúc của đứa con đầu lòng và cung Phúc của đức đứa con út, hoặc con mới sinh, cũng có thể biết các bậc cha mẹ đã có cuộc sống tiến triển theo chiều hướng tốt xấu ra sao, căn cứ vào đó sửa đổi tạo Phúc Đức. Vì:
'Có Phúc mặc sức mà ăn.
**Cung Phụ Mẫu chịu sự ảnh hưởng của cha mẹ từ lúc lọt lòng tới khi khôn lớn, từ vật chất đến tinh thần. Cụ thể như sao Lộc Tồn, nếu cha mẹ nghèo thì sự thừa hưởng không thể bằng người có cha mẹ giàu, được nuôi nấng giáo dục ăn học khác hẳn nhau, đạt tới những thành quả lớn nhỏ khác nhau. Do vậy mà mỗi phút có cả triệu người sinh ra có lá số như nhau, nhưng sự giàu nghèo vẫn khác nhau một trời một vực. Ngoài ra:
'Cha mẹ hiền lành để phúc cho con'.
Tức ngoài di sản vật chất còn là di sản tinh thần quan trọng hơn, giúp con cái định hình theo những khuôn mẫu tốt, thăng hoa cuộc sống.
Qua cung phụ mẫu của đứa con mới sinh, hoặc con út, có thể biết được Phúc - Lộc - Thọ của bố mẹ ra sao. Muốn cải đổi, nên tu nhân tích đức, nếu thấy đưá con mới sinh triệt cung phụ mẫu... nên sinh thêm mới có thể hóa giải.
**Cung Huynh Đệ cho thấy tình trạng anh em đông hay không ra sao, hòa hợp hay không hòa hợp, ảnh hưởng của anh chị em đối với mình và ngược lại. Câu chuyện Trầu Cau cho thấy hình ảnh gắn bó giưã Vợ chồng và Anh em quan trọng ra sao, thiếu một là như kiềng 3 chân chỉ còn 2. Ngày nay ở hải ngoại, các bậc chú bác cô dì càng trở nên quan trọng hơn, trong việc giúp con cháu có thể giảm bớt các ảnh hưởng ngoại lai, trở thành các gương mẫu để dẫn dắt, noi theo. Xem 2 cung Phụ Mẫu và Huynh Đệ có thể biết về cuộc sống trong gia đình, nhất là trước khi lập gia thất. Khi lập gia thất cung Phu Thê sẽ trở nên mạnh mẽ, tạo ra các biến đổi về cuộc sống với những xấu tốt, phúc họa khác trước:
-'Anh em chém nhau đằng dọng,
'Chẳng ai chém nhau đằng lưỡi.
-'Anh em như chân, như tay,
'Vợ chồng như áo cởi ngay tức thì.
**Cung Phu Thê chịu ảnh hưởng nặng nề của người phối ngẫu, qua câu:
-'Lệnh ông không bằng cồng bà.
-'Thuận vợ, thuận chồng,
'Tát nước Bể Đông cũng cạn.
-'Những khi gặp chuyện khó khăn.
'Trong tay có ngọc không bằng có em (hoặc có anh)
Thực vậy, việc xây dựng cuộc sống trăm năm của hai người nam nữ nếu không có sự hòa thuận tương đồng, người làm kẻ phá... thì làm sao có thể phát triển tốt. Ở đây, tùy theo tính cách của các sao và các bộ sao chính chiếu, có thể giúp nhận diện ai sẽ là vợ hay chồng, ai sẽ chỉ là người tình qua đường... để kết hợp. Khi kết hợp rồi, cũng căn cứ theo các sao của cung này mà hiểu về người phối ngẫu có những ưu khuyết điểm ra sao, cần đối xử như thế nào mới tránh khỏi mâu thuẫn. Một khi thấy cung Phu Thê xấu, cần hết sức cẩn trọng trong vấn đề tình cảm từ khi chưa lập gia đình tới khi đã lập gia đình. Tưởng cũng nên biết, khi người này gặp hạn nặng, người kia dễ sinh ra những rắc rối dẫn đến việc tan vỡ. Nếu biết chống lại số mệnh, chính người tốt phải nhẫn nhịn che chở cho người xấu - chịu đựng cho qua vài năm, bỏ ngoài tai mọi lời thị phi của họ hàng và bạn bè, mọi việc sẽ lại đâu vào đấy.
Do vậy nên Tục ngữ rất có lý khi chỉ dẫn:
'Lấy vợ xem tông,
'Lấy chồng kén giống.
Điều đặc biệt đáng nể là lời khuyên:
'Gái hơn 2 - Trai hơn 1'
khi kết hợp trong việc lập gia đình, vì làm như vậy mới tránh khỏi sự cả hai vợ chồng cùng đáo hạn, không thể giảm hạn họa cho nhau.
Cụ thể nếu cùng tuổi hoặc cách nhau 3 tuổi lấy nhau, cả hai sẽ rơi vào 'Tứ Hành Xung', như Dần - Thân - Tỵ - Hợi... cả hai cùng lâm hạn, hạn họa sẽ nặng gấp đôi. Nếu lấy người khác các tuổi 'Tứ Hành Xung' thì năm hạn của người này, sẽ là năm tốt của người kia, mà có thể đỡ đần cho nhau trong tai biến.
**Cung Bằng Hữu chịu ảnh hưởng của sự giao du, kết bạn. Chơi với bạn bè tốt sẽ được cùng bạn phát triển thăng hoa, như câu:
'Giầu vị bạn,
'Sang vì vợ.
Do vậy nếu thấy cung Bằng Hữu xấu, thì nên tránh giao du rộng rãi mới bớt phải gánh chịu các hạn họa, do bạn bè và người giúp việc khi gặp vận hạn không tốt gây ra cho bản thân, gia đình, nghề nghiệp. Muốn biết ai tốt xấu ra sao, có thể căn cứ các câu ca dao - tục ngữ nói về tướng người, cũng như tình trạng gia đình và công ăn việc làm của từng người liên quan.
Tuy nhiên, tư tưởng Việt quan niệm người tốt như Hoa Sen:
-'Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Câu chuyện Lưu Bình - Dương Lễ của Việt Nam cho thấy hai người lần lượt giúp nhau, mà không hề xa lánh ích kỷ, như câu ca dao do giới Nho sĩ Việt chịu ảnh hưởng Tàu đặt ra:
-'Thói thường gần mực thì đen,
'Anh em bạn hữu phải nên chọn người.
'Những người lêu lổng chơi bời,
'Cùng là lười biếng, ta thời tránh xa..
**Cung Tử Tức ngoài việc giúp biết con cái sẽ ra sao, còn thể hiện cả tương lai của các bậc phụ mẫu, nên có sự ảnh hưởng 2 chiều từ cha mẹ xuống con cái lẫn từ con cái lên cha mẹ. Từ những sao và bộ sao của cung Tử Tức, có thể biết tổng quát khi mới sinh ra, sau đó có thể theo lá số của từng đứa con để hiểu và chọn cách giáo dục cùng hướng nghiệp thích hợp. Do vậy mà khoa Tử Vi giữ vai trò rất quan trọng trong vấn đề giáo dục tâm sinh lý của con cái, tạo ra các ảnh hưởng lớn đến cha mẹ từ khi mới sinh con cho đến lúc về già được con cái đối xử ra sao, hầu hoá giải được câu:
'Cha mẹ sinh con,
'Trời sinh tính.
Vì tính tình của mỗi đứa con đều hiện ra rõ ràng qua các ngôi sao chủ Mệnh - Thân của chúng, tuy có thể Trời sinh tính, nhưng nếu biết Ý Trời mà tìm cách uốn nắn, tránh né đối đầu... cũng sẽ giảm được nhiều nguy hại.
**Cung Điền Địa cho thấy nơi sinh sống chật hẹp ngày nay còn quan trọng hơn xưa kia, vì con cái phải gần gũi, sẽ chịu ảnh hưởng của hàng xóm láng giềng, trường học - nhất là trường học và thành phần bạn bè trong các ngôi trường rất khác nhau. Một cách đơn giản, nếu nhà ở gần các chốn sinh hoạt cần thiết tới lui hàng ngày mà tốt đẹp, cũng tránh được nhiều phiền toái. Cuộc sống đô thị hiện đại đã khiến khoa Phong Thủy nay có trọng tâm là việc trưng bày các thứ trong nhà, sao cho thích hợp với các nguồn ánh sáng và cần có không khí luân chuyển tốt. Nói khác đi, khoa Địa lý Phong Thủy nay tuy vẫn chịu ảnh hưởng của Gió và Nước, nhưng thay vì đặt nặng vấn đề đất cát, đã trở thành khoa Tâm Sinh Lý Phong Thủy - đang được cả Tây lẫn Tàu viết sách canh cải, chỉ dẫn trang trí bày biện đồ vật trong nhà hợp lý, sao cho thích hợp với cuộc sống đô thị hóa. Đây là một khoa Tâm lý học mới mẻ, đang được nghiên cứu phát huy qua tác dụng của màu sắc, ánh sáng, độ ẩm, nhiệt độ, vật dụng...
Do vậy mua một căn nhà mới hay chuyển đến một nơi sinh sống mới, điều quan trọng là phải cảm thấy thoải mái thích thú, ánh sáng mặt trời không gây nóng bức vào mùa hè, mùa đông không bị gió lộng, vật dụng xếp đặt thỏa đáng, màu sắc các bức tường và rèm cửa hòa hợp thích nghi. Muốn biết Phong Thủy ra sao, ngoài việc ngắm nhìn cảnh quan còn cần quan sát xem chủ nhà trước tình hình sức khỏe và công việc làm ăn của họ ra sao, con cái như thế nào...
-'Vợ đàn bà,
'Nhà hướng nam.
-'Nhà gần chợ,
'Để nợ cho con.
-'Nhà sạch thì mát,
Bát sạch ngon cơm.
-'Nhà giàu trồng lau ra miá,
'Nhà khó trồng khoai tiá ra củ nâu.
**Cung Tật Ách cho thấy tình trạng sức khỏe tốt xấu ra sao, có thể mắc các loại bệnh nào, phạm phải các thứ tội lỗi gì... cần biết để tìm cách tránh né, hóa giải; như ăn kiêng, chọn nghề nghiệp thích hợp.
Tật Ách thường ứng vào các năm hạn, nên nếu biết trước mà nhẫn nhịn, đề phòng, bớt vọng động, tu tâm dưỡng tính làm điều lành, cũng có thể giảm bớt phần nào.
Bản thân chúng tôi khi gặp 'đại tiểu hạn trùng phùng' sao Tang ở cả các lá số vợ con và bản thân, nắm chắc cái chết. Trong năm đó làm báo gặp 4 vụ kiện khác nhau, 2 vụ mất trộm, 3 tai nạn xe hơi... Xin quẻ Dịch thì thấy mình là Sơn - đối thủ là Thiên, nên phải trơ như đá trong 3 năm, sau đó mọi sự xấu bỗng tan như mây khói. Nhân chứng của đối thủ qua đời, Luật sư của đối thủ bỏ về nước làm việc... Sau khi qua được hạn họa, công việc làm ăn phát triển mạnh mẽ, hưởng luôn cả Phúc - Lộc - Thọ - Khang - An, hơn hai chục năm liền cho đến nay 75 tuổi.
**Cung Thiên Di cho thấy cuộc sống ngoài xã hội ra sao, sẽ gặp các thuận lợi và khó khăn như thế nào, muốn đối phó đương đầu hữu hiệu nên làm những gì.
Cung này cũng cho thấy phần nào hình ảnh ngày trở về với cát bụi.
Người Việt cho rằng:
-'Đi một ngày đàng,
'Học một sàng khôn.
-'Đi cho biết đó, biết đây,
'Ở nhà với mẹ, biết ngày nào khôn.
Bản thân chúng tôi bỏ nhà một mình di cư vào nam năm mới 16 tuổi, đến năm 46 tuổi mới thoát ra được nước ngoài làm lại cuộc đời, nếm trải cơm thiên hạ đủ mùi... Nhờ sớm biết tu tỉnh, lấy bút hiệu là 'Thiện Nhân' - 'Thiện Y cư sĩ' - Thiên Cơ dật sĩ... phát triển công việc viết sách và làm báo theo chiều hướng tốt lành, giữ tâm trong sáng, không bị lôi cuốn vào bất cứ tôn giáo - đảng phái nào suốt cuộc đời... nên sống ngoài tuổi 'cổ lai hy' mà sức khỏe vật chất lẫn tinh thần đều trên trung bình.
Ngẫm nghĩ mới thấy nếu giữ được cái tâm trong sáng giữa trần ai tuy rất khó, nhưng phần thưởng lại rất lớn. Nhìn quanh thấy từ vua quan cho tới bạn bè, ai ăn ở ra sao - lãnh hậu quả như thế nào... mới thấy ý nghiã của cung Thiên Di dạy người ta nhiều điều, nhưng căn bản vẫn là:
-'Ở hiền, gặp lành,
'Ở tinh, gặp ma,
'Ở qủy gặp quái,
'Gian tà gặp nhau.
-'Ở nhà nhất mẹ, nhì con,
'Ra đường lắm kẻ còn giòn hơn ta.
-'Ở sao cho vừa lòng người,
'Ở rộng người cười, ở hẹp người chê.
-'Ở hiền thì lại gặp lành.
'Ở ác gặp dữ, tan tành như tro.
-'Ở hiền thì lại gặp lành,
'Những người nhân đức trời dành phúc cho.
-'Ở nơi gần bạn, gần thầy,
'Có công mài sắt, có ngày nên kim.
-'Thiên hạ đua nhau nói dại khôn,
'Biết ai là dại, biết ai khôn?
'Khôn nghề cờ bạc là không dại,
'Dại chốn văn chương ấy dại khôn.
'Những kẻ nên khôn đều có dại,
'Làm người có dại mới nên khôn...
**Cung Quan Lộc thể hiện công danh, sự nghiệp như thế nào, năng khiếu thích hợp với những nghề nào, theo vận hạn sẽ thịnh suy ra sao... Do vậy nên coi cung Quan Lộc của con cái, để giúp chúng học và chọn nghề thích hợp với số mệnh của chúng, không nên ép con cái học theo ý muốn của mình.
Khi trưởng thành, mỗi người cần tìm hiểu xem nghề nghiệp của mình có những cơ may và vận rủi vào những thời điểm nào, để tiến lui không lỡ bước thất thế.
Điều quan trọng là thiếu thời cần trau giồi tài năng, đức hạnh, mới có thể tự lập làm nên, không cần xu nịnh ai:
-'Nên ra tay kiếm, tay cờ,
'Chẳng nên thì chớ, chẳng nhờ tay ai.
-'Non cao vẫn có cách trèo,
'Đường dẫu hiểm nghèo vẫn có lối đi.
-'Nước lã mà vã nên hồ,
'Tay không mà nổi cơ đồ mới hay.
**Cung Tài Bạch thể hiện tài sản của mình, do cha mẹ để lại và do chính mình làm ra, nhiều ít như thế nào, sẽ gặp thuận lợi hay khó khăn ra sao. Cung này còn thể hiện tư cách của mình trước tiền bạc, để từ đó có thể biết sẽ bị tai họa hay gặp hên may. Nên nhớ ở đây là lòng tham sẽ tác hại lớn lao đến cuộc đời, khi có thể đưa đẩy đến chỗ bất nhân, bất nghiã, tù tội mà mất tất cả:
-'Đồng tiền không phấn, không hồ,
'Đồng tiền khéo điểm, khéo tô mặt người.
-'Đồng tiền đổi trắng, thay đen,
'Làm cho lắm kẻ yếu hèn bất nhân.
-'Đừng khôn ngoan, chớ vụng về,
'Đừng cho ai lận, chớ hề lận ai.
**
Nhận Định:
Qua những câu tục ngữ & ca dao về tướng số, được dẫn chứng cụ thể như trên, chúng ta thấy Người Việt có những nhận định về tướng và số cũng đầy đủ như khoa Tử Vi, Nhân tướng, Phong thủy... giúp có thể 'biết mình - biết người' mà tránh được nhiều bất trắc, dễ thành công hơn trong cuộc sống cá nhân - gia đình - bạn bè - thân thuộc - xã hội - quốc gia...
Đáng tiếc là giới học thức bao năm qua đã bị cái học mất gốc từ Đông Tây tiêm nhiễm, trở thành những kẻ vong thân khi soạn ra các chương trình giáo dục đào tạo vong bản, gây chia rẽ làm tổn hại truyền thống yêu nước của dân tộc, khiến quốc gia suy yếu, lâm nguy; khi đa số kẻ có học trở thành chia rẽ đối đầu nhau mà vô cảm, trước những hành vi bán nước buôn dân, cúi đầu theo giặc.
Ngoài việc giáo dục trực tiếp bằng các câu tục ngữ - ca dao - truyện cổ tích,
người Việt xa xưa còn một lối giáo dục độc đáo qua các câu đố về Trời - Đất - Người - Vật... kích thích trí tưởng tượng và sự suy nghĩ, liên tưởng... vượt qua kiến thức Phân tích & Tổng hợp của học thức, đạt trình độ Diễn dịch & Quy nạp của trí thức.
Việc sáng tác ra những câu đố đòi hỏi sự sắc bén từ cách nhìn sự vật, quan sát so sánh, tìm ra những nét chung mà riêng, rồi lại phải lựa chọn những những câu chữ cô đọng diễn tả, chẳng những bao hàm được tình ý mà còn đượm chút hài hước.
Nhiều khi có những câu 'đố tục giảng thanh' hoặc 'đố thanh giảng tục' thể hiện nét tâm sinh lý đặc thù của một dân tộc đa tình rất mực.
Thiết tưởng, khi kết thúc các môn học như Động vật học, Thực vật học, Toán học, Khoa học... nên nêu ra vài câu đố giúp học sinh suy nghĩ, âu cũng là điều nên làm giúp cho bài học phong phú và sinh động thêm.
Câu Đố về Bầu Trời
-'Đêm thì mẹ mẹ, con con,
'Ngày thì chết hết chẳng còn một ai.
'Còn một ông lão sống dai,
'Nhăn nhăn, nhó nhó, chẳng ai thèm nhìn.
(Trăng, sao, mặt trời)
-'Vừa bằng nồi rang,
'Cả làng phơi thóc.
(Mặt trời)
-'Vừa bằng cái vung
'Vùng xuống ao
'Đào không thấy
'Lấy không được.
(Mặt trăng)
-'Một bày kiến trắng.
'Nằm tít trên cao.
'Ban đêm lao xao,
'Ban ngày biến mất.
(Các vì sao)
-'Bỗng dưng lại thét,
'Đánh chết người ta,
'Quan không dám tra,
'Làng không dám xử.
(Sấm sét)
'Ba chục cùng ở một lồng,
'Một chục có mồng, hai chục thì không.
(Một tháng với 30 ngày)
Câu Đố về Người
-'Một cây mà có 5 cành.
'Dấp nước thì héo
'Để dành thì tươi.
(Bàn tay)
-'Cái gì như thể đất, trời?
'Ngày đêm gắn bó ở nơi cạnh mình?
'Không hương, không sắc, không hình,
'Mà sao quấn quít, quẩn quanh suốt đời?
(Lòng cha mẹ)
-'Một đàn cò trắng,
'Chen chúc trong ao,
'Lấy hai cây sào,
'Lùa vào hang tối.
(Ăn cơm)
-'Ba thằng nó ở ba thôn,
'Đến khi nó chết, nó dồn vào nhau.
(Ăn trầu, cau, vôi)
Câu Đố về Thực Vật
-'Bà già mặc áo đỏ
'Trẻ nhỏ mặc áo xanh.
(Trái ớt)
-'Vừa bằng hột mít
'Dưới đít lắm lông
'Đến ngày giỗ ông
'Đem ra làm thịt.
(Củ hành)
-'Cây bung xung, lá bung xoe,
'Mùa đông nở trứng, mùa hè ấp con.
(Cây cau)
-Cây xanh mà lá cũng xanh,
Cái đít trắng nõn, nấu canh ngọt lừ.
(Cây rau cải trắng)
-'Có râu, có tóc, có răng vàng,
'Aó quần nhiều lớp mặc xênh xang,
'Già vẫn còn bắt mẹ phải mang.
(Bắp ngô)
-'Da cóc mà bọc bột lọc,
'Bột lọc bọc hòn son.
(Trái vải)
-'Da cóc mà bọc bột lọc,
'Bột lọc mà bọc hòn than.
(Trái nhãn)
-'Da cóc mà bọc trứng gà,
'Mở ra thơm phức, cả nhà muốn ăn.
(Trái mít)
-'Đen thủi, đen thui,
'Dao thớt không sợ,
'Sợ cối sợ chày.
(Hột tiêu)
-'Một đường xương sống,
'Một đống xương sườn.
'Mặt mũi phi thường,
'Cái râu bảnh chọe.
(Tàu dừa)
-'Sông không đến,
'Bến không vào,
'Ở giữa trời cao,
'Làm sao có nước?
(Quả dừa)
-'Trên trời có giếng nước trong,
'Con kiến chẳng lọt, con ong chẳng vào.
(Quả dừa)
-'Vừa bằng cánh cửa,
'Nằm ngửa giữa trời.
(Tàu lá chuối)
-'Mặt tròn vành vạnh tựa như gương,
'Con con, cháu cháu, khắp tứ phương.
'Thuở đương thì màn che, trướng rủ,
'Khi về già giãi nắng, dầm sương.
(Cái gương sen)
-'Mình thì cao lớn trượng phu,
'Đẻ con chuột chù, ỉa cứt lăn tăn.
(Cây cau)
Câu Đố về Động Vật
-'Bằng cái lục lạc,
'Trong nạc ngoài xương.
(Quả trứng)
-'Vừa bằng hột quít,
'Dưới đít sáng lòe.
(Con đom đóm)
-'Kiển tố' vừa đố, vừa bảo.
(Tổ kiến nói lái)
-'Trùng trục như con bò thui,
'Chín mắt, chín mũi, chín đuôi, chín đầu.
(Con bò thui chín)
-'4 người giẫm đất,
'1 người phất cờ,
'2 người lơ quơ,
'2 người quạt mát.
(Con voi)
-'Chân vàng, mình trắng,
'Đứng nắng giữa đồng.
(Con cò)
-'Chân vịt, thịt gà,
'Da trâu, đầu rắn,
'Biết cắn mà chẳng biết kêu.
(Con rùa)
-'Con gì cánh mỏng, đuôi dài,
'Lúc bay, lúc đậu, cánh thời đều giương.
(Con chuồn chuồn)
-'Không mắt, không mũi,
'Lầm lũi mà đi.
(Con giun)
-'Mình vàng mặc áo mã tiên.
'Ngày năm bảy vợ, tối riêng một mình.
(Con gà trống)
-'Tám sào chống cạn,
'Hai nạng nghiêng nghiêng.
'Cặp mắt láo liên,
'Cái đầu không có.
(Con cua)
Câu Đố về Vật Dụng
-'Thành lũy không thấp, không cao,
'Có sông, có nước, cá chẳng vào.
'Voi đi đến đấy dừng chân lại,
'Đủ cả văn võ kình chống nhau.
(Bàn cờ tướng)
-'Cây suôn đuồn đuột,
'Trong ruột đen thui,
'Già trẻ lui cui,
'Dằn đầu đè xuống.
(Bút chì)
-'Cây suôn đuồn đuột,
'Trong ruột rối nùi.
'Người lớn buồn vui,
'Cũng đem ra đốt.
(Điếu thuốc lá)
-'Có con mà không có cha,
'Có lưỡi, không miệng, đố là vật chi?
(Con dao)
-'Có sống mà chẳng có lưng,
'Có lưỡi, có mũi, mà không có mồm.
(Con dao)
-'Thân cao lỏng khỏng,
'Da mỏng bọc xương,
'Hồn đi bốn phương,
'Chân còn đứng mãi.
(Cây nhang)
-'Xừng xững mà đứng góc nhà,
'Hể ai đụng đến thì òa khóc lên.
(Cối xay lúa)
-'Mình tròn, lưng khỏng khòng khong,
'Dây tơi quấn quít con ong nửa vời.
'Rằng ta tìm chốn thảnh thơi,
'Bắt con rồng đất, ghẹo người thủy cung.
(Cần câu cá)
-'Mình tròn trùng trục,
'Quận khúc kỳ lân,
'Ba bốn mươi chân,
'Miệng bằng cái đĩa.
(Cái nơm bắt cá)
-'Ngả lưng cho thế gian nhờ,
'Chẳng ơn thì chớ, còn ngờ bất trung!
(Tấm phản)
-'Ở nhà nằm một bó,
'Ra ngõ bằng cái nia.
(Cái ô)
-'Quả gì không ở cây nào,
'Không chân, không cánh, bay cao, chạy dài?
(Quả bóng)
'Ruột dài từ mũi đến thân,
'Ruột mòn, thân cũng dần dần mòn theo.
(Bút chì)
-'Thân em vừa trắng, vừa tròn,
'Viết bao nhiêu chữ, em mòn bây nhiêu.
(Viên phấn viết bảng)
-'Thân em xưa ở bụi tre,
'Mùa đông khép lại, mùa hè nở ra.
(Cái quạt giấy)
-'Trong nhà có bà hai đầu.
(Cái võng)
-'Mình tròn, da trắng phau phau,
'Ăn no, tắm mát, rủ nhau đi nằm.
(Những cái bát ăn cơm)
-'Bộ tịch nhà anh xấu lạ lùng,
'Khom lưng, uốn gối, cả đời cong.
'Lưỡi to nên sức ăn mỏ khoét,
'Cái kiếp theo đuôi có thẹn không?
(Cái cày)
-'Mẹ có cánh, mẹ chẳng biết bay,
'Con không có cánh, con bay vù vù.
'Mẹ nằm ở chốn phong du,
'Con bay tít mù, mẹ chẳng biết đâu.
(Cung và tên)
-'Sông sâu nước đục lờ lờ,
'Thằng lặn, thằng hụp, thằng thò đầu lên.
(Bánh trôi nước)
Câu Đố Thanh giảng Tục
-'Một cây mà chẳng có cành,
'Có hai hòn đá để dành gốc cây.
(Dương vật)
-'Ngồi cười,
'Đứng câm,
'Đi lẩm bẩm.
(Âm hộ)
-'Thè lè lưỡi trai,
'Không ai, thì nó.
'Khum khum gọng vó,
'Chẳng nó, thì ai?
(Tử cung)
Câu Đố Tục giảng Thanh:
-'Miệng chào anh,
'Tay vành lỗ.
(Túi đựng trầu cau)
-'Mình tròn, đầu toét tòe loe,
'Đút vào cô gái, cô gái nghe,
'Đút vào bà lão, bà lão chê.
(Đôi hoa tai)
-'Năm anh đứng bên kia sông,
'Năm cô đứng bên này sông.
''Năm anh đem xỏ vào l... năm cô.
(5 khuy áo cài vào 5 lỗ khuy áo)
-'Bà béo mà lẹo ông gầy,
'Muốn mở phải lấy cái chày đẩy ra.
(Ống khóa và chià khóa)
-'Trên lông, dưới lông,
'Tối lồng làm một.
(Con mắt)
-'Trên da, dưới cũng là da,
'Đút vào thì ấm, rút ra lạnh lùng.
(Đi giày da)
Nhận định
Câu đố có lối mô tả rất độc đáo, vừa như phác họa vừa như biếm họa, nhưng lại có thể tả người, tả vật, tả việc một cách tinh tế và lý thú. Tất cả thể hiện những cái nhìn quan sát và so sánh thấu đáo sự vật một cách tinh quái, đượm tính trào lộng.
Đây là một phương pháp giáo dục đòi hỏi sự vận động trí não lẫn ngũ quan rất sâu sắc, phải vận dụng óc tưởng tượng suy đoán theo các phương pháp của luận lý học, bao gồm cả phân tích tổng hợp lẫn diễn dịch quy nạp... nhưng không khô khan, mà còn tạo được sự thích thú trong sự tìm hiểu khám phá qua các giải đáp.
Ngày nay có 2 chủ trương khác biệt về nghệ thuật, là 'Nghệ thuật vị nghệ thuật' và 'Nghệ thuật vị nhân sinh', thì nghệ thuật Hát - Hò - Lý... của người Việt từ xa xưa đã thiên hẳn về phiá 'vị nhân sinh', khi nội dung mang nhiều tình ý có tính cách giáo dục nhân luân.
Chính vì điều này mà việc hát - hò - lý... của người Việt xa xưa - trước khi bị Nho Giáo xâm nhập - mới không bị chê là 'xướng ca vô loại'; được ưa thích và coi trọng, trở thành phổ biến trong đời sống Việt, từ vua chúa trong triều đình, đến
dân chúng ngoài đời thường.
Sách Văn Hiến Thông Khảo của Mã Đoan Lâm có chép tờ sớ của một sứ thần đời nhà Tống nói về vua Lê Hoàn (980 -1005) của Việt Nam:
'Hoàn thường mặc áo vải hoa sắc hồng, mũ đội trang sức bằng châu báu, tự hát mời rượu, không hiểu là câu gì'.
Như vậy nhà vua Việt đã hát bằng tiếng Việt, chứng tỏ cho đến thế kỷ thứ X, việc ca hát ở Việt Nam được triều đình coi trọng, vua chúa ưa thích biểu diễn.
Năm 1025, dưới triều vua Lý Thái Tổ, triều đình mở trường dạy ca hát, có chức quan Quản Giáp trông coi, lập ra các giáo phường.
Một nữ danh ca họ Đào hát hay được nhà vua ban thưởng, ai nấy hâm mộ nên đã dùng họ Đào để gọi các phụ nữ ca hát là 'đào nương'.
Chỉ đến đời Hậu Lê, bị ảnh hưởng Trung Quốc quá nặng nề, nên mới có chuyện coi nhẹ giới ca sĩ, khiến Đào Duy Từ phải bỏ miền bắc, vào nam theo chúa Nguyễn tiến thân, được trọng dụng, trở thành một đại công thần dưới thời chuá Nguyễn.
Nếu có một cái nhìn xuyên suốt vào Hậu bán Thế kỷ XX, sẽ thấy chính nghiã và truyền thống Quốc Gia được các nhạc sĩ & ca sĩ bảo tồn và phát huy tốt đẹp nhất qua trào lưu Nhạc Vàng, đến độ Việt Cộng tìm cách tiêu diệt để đề cao Nhạc Đỏ bị thất bại não nề, cuối cùng phải để Nhạc Vàng tái sinh mạnh mẽ, được dân chúng trong và ngoài nước ưa thích sâu rộng, hình thành các thương hiệu về âm nhạc lớn từ hải ngoại lan truyền ngược trở lại trong nước như Asia, Thúy Nga Paris, Vân Sơn... rất hoành tráng, đưa tình ca truyền thống thăng hoa tột bực lên đỉnh cao chưa từng thấy.
Nói khác đi, nếu trong phạm vi Văn chương & Tư tưởng bị giới học thức vọng ngoại vong thân làm cho tha hóa, làm lu mờ các giá trị truyền thống như Tục ngữ - Ca dao - Cổ tích... thì riêng phạm vi âm nhạc vẫn đường đường chính chính ngự trị độc tôn trên các phương tiện phổ biến mới, như truyền thanh, truyền hình, điện ảnh - nhất là các loại băng nhạc từ radio cassette, video đến CD, DVD...
Nếu Văn chương & Tư tưởng truyền thống của dân tộc bị văn hóa ngoại lai làm cho giới học thức bị tha hóa mất gốc rất bi thảm, thì riêng trong âm nhạc truyền thống này đã được quần chúng mền chuộng, giới nhạc sĩ và ca sĩ bảo tồn phát huy, không chỉ giúp tồn tại mà còn thăng hoa qua các lối hát xẩm, quan họ, ca trù, cải lương, tân nhạc, rồi tân cổ giao duyên... với các làn điệu tình ca dân tộc về tình mẹ, về lòng yêu nước chan chứa khiến người nghe thổn thức với các hoài cảm, hình thành tâm thức nung nấu lòng yêu nước & thương nòi khôn nguôi; để từ đó có thể giúp khôi phục lại những gì bị mất do các bạo quyền gây ra, từ văn hóa lan qua chính trị.
Bước qua Thế kỷ XXI, nhìn lại Thế kỷ XX, những gì tồn đọng nhiều nhất trong chúng ta không phải là các tác giả văn học, mà chính là những nhạc phẩm?
Bên cạnh công lao của Hồ Biểu Chánh, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Tự Lực Văn Đoàn, Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ... điều sâu đậm hơn cả với nhiều người còn là những Phạm Duy, Văn Cao, Phạm Đình Chương, Trần Thiện Thanh, Trịnh Công Sơn... và những tiếng hát bất hủ của Thái Thanh, Lệ Thu, Khánh Ly, Thanh Lan...
Đáng chú ý là một số nhạc bản và ca sĩ như Tuấn Vũ... từng bị học giới Miền Nam coi là bình dân (bị gọi hỗn láo là 'nhạc sến'), lại có sức thu hút dân chúng Miền Bắc, có thể trình diễn 10 buổi liền tại Nhà hát Lớn Hà Nội vào năm 2011, nơi được CSVN coi như 'thánh đường' kịch nghệ XHCN của chúng, khiến bọn văn nô tức giận lên tiếng cảnh báo đồng bọn.
Sự việc cho thấy sự sai lầm khi đánh giá các giá trị văn hóa, nếu chỉ căn cứ trên ý kiến của giới học thức vong bản qua sách vở báo chí của bất cứ chế độ nào?!
Nếu ở điệu hát ru hoàn toàn mang tính trực tiếp giáo dục trẻ nhỏ & gián tiếp khuyên bảo người lớn, thì các điệu hát của người lớn như hát trống quân, hát ví, hát xoan... cũng như các điệu hò, điệu lý... của 3 miền, đều mang tính giáo dục chung về truyền thống tình cảm - tâm lý - gia đình - xã hội - quốc gia, các kiến thức phổ thông cần thiết... khi luôn nêu ra những hình ảnh xấu tốt, những kinh nghiệm sống cụ thể trong thực tế.
Do nền nhạc Việt đặt trên cơ sở 'ngũ âm', chứ không trên 'thất âm' như nhạc Tây phương, nên làn điệu dân ca Việt rất rõ ràng, mạnh mẽ, dễ hát, dễ học.
Sự phong phú của dân ca Việt thể hiện qua nhiều hình thức diễn đạt khác nhau tùy theo mỗi miền Bắc - Nam - Trung. Mỗi miền lại có các vùng có những lối hát khác hẳn nhau.
Trong mục đích giáo dục các căn bản nơi nhà trường, chúng tôi chỉ xin đề cập sơ lược về 4 hình thức Ru - Hò - Lý - Hát Nhi Đồng, dễ học, dễ hát, đã có một số bài kiểu mẫu được phổ biến qua tân nhạc, giúp việc học hành nơi các nhà trường phổ thông dễ dàng hơn. Nếu muốn đi vào chuyên môn cao xa hơn, cần tham khảo các tư liệu của chuyên ngành âm nhạc.
1/ Hát Ru:
Hát Ru Con là loại dân ca phổ biến từ thành thị đến thôn quê khắp 3 miền Trung - Nam - Bắc, tuy một số nơi có lối ru khác nhau, nhưng đều dùng các bài ca dao để ru, với những tiếng đệm, tiếng láy tùy hứng.
Hát Ru 3 miền Bắc - Nam - Trung khác nhau về câu mở đầu, sau đó mới là sự phát âm qua giọng nói khác biệt của từng miền:
-Miền Bắc: à ơi...
-Miền Trung: à a...
-Miền Nam: ầu ơ...
Tuy nhiên về âm điệu thì hát ru ba miền đều nằm trên tần số âm thanh không chỉ đem lại sự an bình cho tâm hồn, mà còn có thể gieo vào tiềm thức trẻ nhỏ những tiết điệu lục bát nhịp nhàng theo tiếng võng đưa của truyền thống dân tộc. Điều này giúp đứa trẻ có khả năng thẩm âm & phát âm nhập tâm từ tấm bé, giúp lớn lên có thể ca hát dễ dàng theo người lớn, chẳng cần qua một trường đào tạo nào. Để rồi khi khôn lớn hiểu biết, nột dung của những lời ru ý nghiã mới trở lại nhập tâm dần dần, tạo thành một tâm thức Việt.
Với các nhà ái quốc, mặc dù bị giáo dục sâu nặng bởi những giáo điều ngoại lai vong bản, nhưng có thể do thấm đậm lời ru từ thời ấu thơ mà không bị mất đi tình tự dân tộc? Phải chăng vì thế mà những bậc anh hùng liệt nữ có công lớn với dân nước, đa số xuất thân từ chốn nông thôn dân dã, như Lê Lợi - Nguyễn Huệ - Nguyễn Công Trứ...?
Do vậy mà Hát Ru giữ một vai trò quan trọng trong việc định hình tâm lý, tư tưởng, tình cảm - dần trở thành tâm thức của mỗi người ngay từ thời ấu thơ, nên khi giáo dục chúng ta cần lựa chọn những bài Hát Ru đậm đà ý nghiã và cận nhân tình nhất, từ vật chất như các món ăn, đến tinh thần như tình yêu và tâm lý đối với người - vật - cảnh quan - quốc gia...
*Những món ăn quốc hồn, quốc túy:
-'à ơi...
'Em tôi buồn ngủ buồn nghê,
'Buồn ăn cơm nếp, cháo kê, thịt gà.
'Buồn ăn bánh đúc, bánh đa,
'Củ từ, khoai nướng, cùng là bún măng...
-à ơi, cô Thỉ, cô Thi,
'Cô đang đương thì, cô kẹo với ai
'Cậu cả kẽo kẹt cô hai,
'Vợ chồng thuyền chài kẽo kẹt trên sông.
''Mâm cốm kẹo với mâm hồng,
'Bát bịt, mâm đồng kẽo kẹt một nơi.
'Mâm thịt kẹo với mâm xôi,
'Thịt bùi, xôi dẻo, kẹo nơi bà già.
'Cùi dừa kẹo với bánh đa,
'Cái điã thịt gà kẹo với lá chanh.
'Nồi cơm kẹo với nồi canh,
'Quả bí trên cành kẹo với tôm he.
'Bánh rán kẹo với nước chè,
'Cô Thi cò kè kẹo với ai đây?
'Bà cốt kẹo với ông thầy,
'Con chim loan phượng kẹo cây ngô đồng.
(Kẹo ở đây có ý nghiã là gắn bó liên hệ với nhau)
*Đề cao đạo đức Việt Nam là đối với cha mẹ cao hơn hết:
-'à ơi ơi, ạ ời ời...
'Công cha như núi ngất trời,
'Nghiã mẹ như nước ở ngoài biển đông,
'Núi cao biển rộng mênh mông,
'Công cha & nghiã mẹ ghi lòng chớ quên.
-'à ơi...
'Cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể,
'Con nuôi cha mẹ con kể từng ngày!
'Công cha, nghiã mẹ cao dày,
'Phải lo đền đáp những ngày lớn khôn.
*Vai trò của phụ nữ với Quốc gia & Dân tộc:
-'à a... ru hỡi, ru hời...
'Làm con sống ở trên đời,
'Sao cho xứng với giống nòi nước ta.
'Ghé vai gánh vác sơn hà,
'Làm cho tỏ mặt đàn bà nước Nam.
*Luân lý sống không xấu cũng đủ tốt:
-'Ầu ơ...
'Trong đầm gì đẹp bằng sen,
'Lá xanh, bông trắng, lại chen nhị vàng,
'Nhị vàng, bông trắng, lá xanh,
'Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
-'Bồng bồng nẩy lộc ra hoa,
'Một đàn vợ lính trẩy ra thăm chồng.
'Trẩy ra có gánh, có gồng,
'Trẩy ra thăm chồng bảy bị còn ba.
'-Nào ai nhắn nhủ mà ra?
'Mà ngồi mà kể con cà con kê?
'Muốn tốt thì đưa nhau về,
'Việc quan anh chịu một bề cho xong!
Nữ sĩ Xuân Quỳnh đã có 2 câu thơ:
'Dẫu con đi hết cuộc đời,
'Cũng không đi hết những lời mẹ ru.
2/ Hát Hò:
Hát Hò là một thể điệu phổ biến sau Hát Ru, nhằm thể hiện sự giao tiếp về tình cảm, từ đơn giản đến phức tạp, từ giữa một vài người tới nhiều người.
Hát Hò có 3 lối khác nhau:
**Hát Hò một mình:
Nhằm bày tỏ nỗi lòng giữa chốn trời rộng sông dài. Miền Trung có Hò mái Nhì, Hò mái Đẩy... Miền Nam có Hò Truyện, Hò Thơ, Hò Huê Tình... Miền Bắc có Hò kéo thuyền, Hò kéo gỗ
-'Hò ơ...
'Nước đầu cầu khúc sâu khúc cạn,
'Chèo qua Ngọc Trản đến Vạn Kim Long.
'Sương sa gió thổi lạnh lùng,
'Sóng xô, trăng lặn, trạnh lòng nhớ thương.
-'Hò ơ...
'Ai có nhớ sông Hương?
'Ai có thương núi Ngự?
'Bởi vì đâu mà núi lở, sông bồi?
'Cho thuyền gió bạt trôi xuôi?
'Trông vời quê cũ, lệ rơi ròng ròng!
-'Hò ơ...
'Chiếc buồm nho nhỏ,
'Ngọn gió hiu hiu...
'Nay nước thủy triều,
'Mai lại nước rươi...
'Sông sâu, sóng cả, em ơi!
'Chờ cho sông lặng,
'Buồm xuôi ta cùng.
'Trót đa mang vào kiếp bềnh bồng,
'Xuống ghềnh, lên thác,
'Hò ơ... Ta cùng có nhau.
-'Hò ơ...
'Trời cao, cao mấy cũng không xa,
'Đất kia trông vậy, thế mà dày sâu.
'Biển sông thiên địa tù mù,
'Biết mô cửa lạch, biết mô sông cùng?
'Nước đầy ngoài biển, nước lại vô sông.
'Ngoài biển nhá trẹn (1), trong đồng kiệt khô.
'Nước thủy triều, nước đi mô?
'Lúc lên, lúc khắp, lúc khô, lúc rồi.
'Trăm khúc sông, khúc lở khúc bồi,
'Khúc lở thành vực, khúc bồi thành non.
'Ngòi sông lớn, ngọn sông con,
'Nước ra ngoài biển, nuớc tuôn vô đồng.
'Trăm năm kể hết khôn cùng,
'Kià ai đứng đợi bên sông hững hờ.
(1) là nước lớn.
-'Em là phận gái nữ nhi,
'Sợi gai móc lưới dám bì người ta.
'Đôi bên bác mẹ cùng già,
'Vá cái mùng rách để mà kéo tôm.
'Giêng, Hai có gió giông nồm,
'Cùng nhau ra biển kiếm vùng cá Đoan.
'Tháng Ba ta xuống lưới quàng,
'Cá Xú, cá Xác, cá Han, cá Thiều.
'Tháng Tư ta mới xuống kheo,
'Êm êm sóng gió, ruốc kheo vào bờ.
'Đôi ta kết chỉ, xe tơ,
'Ruốc ràm trúng lớn, đổ bờ chan chan.
'Tháng Năm te chạy hết ngàn,
Cá Chim cũng lắm khơi đàng vào ra.
'Tháng Sáu gõ đánh cá Hoa,
'Cá Bẹ, cá Trắng cùng là Thu lanh.
'Tháng Bảy là tháng hiền lành,
'Lưới khoai (1) đánh cá Lành canh, cá Bè.
'ThángTám cá Nục, tôm He,
'Lưới dở (2) ta xuống Mả Nghè (3) cũng đông.
'Tháng Chín là tháng giã sung (4),
'Bằng Chặng, Lão Mắt bắt cùng Láo Tây (5).
'Cá Hồng, cá Đuối thiếu gì,
'Toàn giống cá lớn, kể chi cá Chuồn.
'Tháng Mười lại tiếp việc luôn,
'Câu bè đón bắt những luồng cá Dưa.
'Gặp nhau phận đẹp, duyên ưa,
'Khác gì tôm Sú gặp mưa tháng mười.
'Tháng Một là tháng nghỉ ngơi,
'Sửa thuyền, vá lưới, đứng ngồi quẩn quanh.
'Tháng Chạp ăn tết an lành,
'Cá Cồi, cá Lụ để dành tháng Giêng.
(1) lưới có mắt bé để bắt cá nhỏ. (2) lưới có mắt vừa để bắt cá lớn hơn). (3) tên một vụng cá ở Sầm Sơn. (4) tên một dụng cụ đánh cá. (5) tên mấy loài cá.
**Hát đố đáp:
Qua những câu đố và đáp, thể hiện không chỉ kiến thức mà còn là khả năng ứng phó:
-Đố:
'Có giỏi đáp ngay
'Cái gì thì cay
'Cái gì thì nồng
'Cái gì dưới sông
'Cái gì trên đồng
'Cái gì trên non
'Cái gì nhiều con
'Cái gì thì son,
'Cái gì thì tròn
'Vừa bằng bàn tay
'Cái gì thì dày
'Cái gì thì mỏng
'Cái gì no lòng
'Cái gì sống lâu
'Cái gì đội đầu
'Cái gì đựng trầu
'Cái gì cầm tay?
-Đáp:
'Xin trả lời ngay
'Trầu không thì cay
'Vôi trắng thì nồng
'Thuyền bè dưới sông
'Thóc lúa trên đồng
'Hươu khỉ trên non
'Gà mái nhiều con
'Câu đối sơn son
'Cái gương thì tròn
'Vừa bằng bàn tay
'Cây lụa thì dày
'Cây vải thì mỏng
'Cơm ăn no lòng
'Bà già sống lâu
'Cái nón đội đầu
'Cái cơi đựng trầu
'Cái quạt cầm tay.
-'Gái:
'Khăn xéo vắt vai, quần hai ống ướt,
'Học gì chàng mà bước vô thi?
'Tiền 5 quan hàng quán mất đi,
'Nếu anh đối được, em thì theo không.
-Nam:
'Khăn xéo vắt vai, quần hai ống khổ,
'Thừa văn với võ, anh vô trường này.
'Tiền 5 quan hàng quán còn đây,
'Anh đà đối được, em rày tính sao?
**Hát Hò tập thể:
Nhằm làm gia tăng sức mạnh, hoặc hứng thú khi làm việc chung, có các điệu hò như Hò Kéo Gỗ, Hò Kéo Thuyền, Hò Giã Gạo, Hò kéo Thác...
-'Dô ta, hò dô ta,
'Cùng nhau kéo gỗ. Dô ta,
'Kéo từ sườn núi, kéo ra cánh đồng.
'Đóng bè thả gỗ xuống sông,
'Thuận dòng xuôi gió bềnh bồng trôi đi.
'Hai bên cây cỏ xanh rì,
'Mải vui cảnh mới, nghĩ gì đường xa.
'Dô ta, hò dô ta,
'Cùng nhau kéo gỗ. Dô ta,
'Kéo lên trên bến làm nhà trú thân.
'Nào kèo, nào cột, nào trần,
'Nhà cao, cửa rộng, mọi phần vững yên
'Vợ chồng, con cái ấm êm,
'Chẳng lo gió táp, chẳng phiền mưa sa.
'Dô ta, hò dô ta,
'Chùng nhau kéo gỗ. Dô ta,
'Kéo vào trong xưởng, xẻ ra ván dài.
'Thợ lo cưa đục hôm mai,
'Đóng bàn, đóng ghế cho ai học hành.
'Mai sau nổi tiếng tài danh,
'Chớ quên núi đỏ, rừng xanh hữu tình.
'Dô ta, hò dô ta...
-'Hò dô ta là hò dô ta...
'Hai bên đứng ở hai hàng,
'Người mũi, kẻ lái, rập ràng cho mau.
'Ngó trước ngó sau, ra tay mà đẩy!
'Hò dô ta là hò dô ta...
'Này anh em ơi! Hò lên cho nhịp,
'Để chèo thuyền lướt sóng ra khơi,
'Nay mừng thời vận lên rồi,
'Bắc Nam hòa thuận, ta thời vui ca.
'Hò dô ta là hò dô ta...
'Cảnh Dương, Cửa Cấm lạch nhà,
'Ghe thuyền buôn bán xinh là quá xinh.
-'Hò là hò khoan...
'Khăn thương nhớ ai,
'Khăn rơi xuống đất.
'Khăn thương nhớ ai,
'Khăn vắt lên vai.
'Khăn thương nhớ ai,
'Khăn chùi nước mắt.
'Đèn thương nhớ ai,
'Mà đèn không tắt.
'Mắt thương nhớ ai,
'Mắt ngủ không yên.
'Đêm qua em những lo phiền,
'Lo vì một nỗi chưa yên mọi bề...
-'Một khoan, hai khoan, xin nàng ở lại,
'Điều chi chưa phải, phân giải đôi lời.
'Quen nhau chưa ráo mồ hôi,
'Chưa xong cối gạo, đã chia đôi nẻo đường!
-'Hò khoan, là hò khoan,
'Ai trắng như bông, lòng tôi không chuộng,
'Ai nọ đen giòn, làm ruộng tôi thương.
'Biết rằng dạ có vấn vương?
'Để tôi cậy mối tìm đường sang thăm?
'Cầu Ô Thước trăm năm giữ vẹn,
'Sông Ngân Hà ước nguyện không phai.
'Sợ ai ham chốn tiền tài!
'Dứt đường tình nghiã lâu dài, bỏ nhau!
-'Hò khoan, bắt cái hò khoan!
'Trẻ con ăn tết muôn vàn cái vui.
'Cùng nhau múa hát đùa chơi,
'Ông trăng nhìn xuống mỉm cười khen ngoan.
3/ Hát Lý:
Từ những câu ca dao, muốn tạo ra những điệu Hát Lý, thường thêm những tiếng đệm lót, đệm phụ nghiã, tiếng láy đưa hơi, những điệp từ...
Thể tài của điệu Hát Lý rất đa dạng và bình dị. Các loại cây ăn trái, các loại hoa, các món ăn bình dân, các loại động vật, các loài thủy tộc, các vật dụng hàng ngày, các địa danh... đều có trong các điệu Hát Lý.
Do vậy mà có các bài Hát Lý như Lý Qua Đò, Lý Cảnh Chùa, Lý Con Cóc, Lý Con Sáo, Lý Ngựa Ô, Lý Í Á, Lý Hò Khoan...
Hát Lý không đòi hỏi môi trường diễn xướng đặc hữu, không có lề lối nguyên tắc nào quy định. Người ta thường hát lý với nhau lúc làm việc, khi nghỉ ngơi... cũng như trong các dịp lễ lạc buồn vui.
-Lý Chiều Chiều:
Chiều lại nhớ Chiều hớ chiều chiều,
'Nhớ người quân tử khăn điều vắt vai.
-Lý Con Mèo:
'Mèo nằm xó bếp vênh râu,
'Thấy con chuột chạy lắc đầu kêu ngao.
-Lý Lu Là:
'Ai về Giồng Dứa qua truông,
'Gió lay (lu là) bông sậy, để buồn cho em.
-Lý í à:
'Cầu cao ván yếu (í à) gió rung,
'Anh qua chẳng đặng, cậy cùng em đưa.
-Lý Xự Xế Xang:
'Anh về miệt dưới (ú liu xự) ở lâu (là xự xế xang, ú liu xự) ở lâu,
'Để thương, để nhớ, để sầu (ú liu xự) mình em (là xự xế xang ú liu xự) mình em.
-Lý cây chanh:
'Chừng nào muối ngọt, chanh thanh,
'Em đây mới lãng quên anh, đi lấy chồng.
-Lý 5 canh:
'Canh 1 thơ thẩn ra vào,
'Chờ trăng (ôi tình) mà trăng xế,
'Chờ hoa (í) bông hoa tàn.
'Trống canh 2 thắp ngọn (í) loan đèn loan,
'Chờ người (ôi tình) mà quân tử,
'Thở than (í) than đôi lời.
'Trống canh 3 đang nói cười, đang cười,
'Còn hai (ôi tình) canh nữa (a í a)
'Mỗi người (là) người mỗi phương.
'Trống canh tư chép miệng nguyền thề nguyền,
'Khứ lai (ôi tình) mà minh bạch,
'Cho tuyền là tuyền thủy chung.
'Trống canh 5 (í a) cờ phất trống rung,
'Qua gá tiếng cùng,
'Bậu chớ nghe ai, chớ nghe ai.
-Lý ngựa ô:
'Ngựa ô anh thắng kiệu vàng,
'Anh tra khớp bạc,
'Lục lạc đồng đen,
'Búp sen lá rậm,
'Dây cương đằm thắm,
'Cán roi anh bịt đồng,
'Anh đưa nàng về dinh.
4/ Hát Nhi Đồng hay Đồng Dao
Đây là lối hát rất quan trọng trong việc giáo dục trẻ nhỏ, nhằm vừa luyện tập phần thể xác - vừa hình thành những ý thức về cuộc sống. Hát Đồng Dao có thể hát kèm trong một số trò chơi - điệu múa, nhằm giúp trẻ vừa chơi vừa học về nhiều vấn đề khác nhau, nên trong vui chơi giải trí có giáo dục các kiến thức và luân lý thích hợp với tuổi thơ, cần đưa vào chương trình các lớp mẫu giáo, tiểu học:
-'Con công hay múa
'Nó múa làm sao?
-'Nó rụt cổ vào
'Nó xòe cánh ra
'Nó đậu cành đa
'Nó kêu ríu rít
'Nó đậu cành mít
'Nó kêu ''vịt chè''
'Nó đậu cành tre
'Nó kêu ''bè muống''
'Nó đậu dưới ruộng
'Nó kêu ''tầm vông''
'Nó là con công
'Con công hay múa...
-'Con vỏi con voi
'Cái vòi đi trước
'Hai chân trước đi trước
'Hai chân sau đi sau
'Còn cái đuôi đi sau rốt
'Tôi xin kể nốt
'Cái chuyện hai voi.
-'Hai vỏi hai voi
'Hai vòi đi trước
'Bốn chân trước đi trước
'Bốn chân sau đi sau
'Hai cái đuôi đi sau rốt
'Tôi xin kể nốt
'Cái chuyện ba voi...
-'Con mẻo con mèo
'Nó trèo cây duối
'Nó nấp vô bụi
'Nó lủi lên trên
'Nó ngó sang bên
'Nó co cái cẳng
'Nó ngoẳng cái đuôi
'Nó chộp cái mồi
'Đó là con chuột.
-'Ếch ở dưới ao
'Thấy trời mưa rào
'Nhảy ra bì bọp
'Ếch kêu ộp ộp
'Ếch kêu oạp oạp
'Gặp bác đi câu
'Ếch vội trốn mau
'Kẻo mà bị bắt.
-'Giung giăng giung giẻ
'Dắt trẻ đi chơi
'Đến cửa nhà trời
'Lạy cậu lạy mợ
'Cho cháu về quê
'Cho dê đi học
'Cho cóc ở nhà
'Cho gà bới bếp
'Xì xà xì xụp
'Ngồi thụp xuống đây.
-'Thả điả ba ba
'Chớ bắt đàn bà
'Phải tội đàn ông
'Cơm trắng như bông
'Gạo tiền như nước
'Đổ mắm đổ muối
'Đổ chuối hạt tiêu
'Đổ niêu nước trà
'Đổ phải nhà nào
'Nhà ấy phải chịu.
-'Nu na nu nống
'Cái bống nằm trong
'Cái ong nằm ngoài
'Củ khoai chấm mật
'Phật ngồi Phật khóc
'Con cóc nhảy ra
'Con gà bới bếp
'Gạo nếp thổi xôi
'Nhà tôi nấu chè
'Tay xòe, chân rụt.
-'Nu na nu nống
'Chân chống, chân chèo
'Chèo đi chèo lại
'Có gái ra quân
'Có chân thì rụt.
-'Tập tầm vông
'Tay nào không?
'Tay nào có?
'Tập tầm vó
'Tay nào có?
'Tay nào không?
-'Ông tiển ông tiên
'Ông có đồng tiền
'Ông giắt mái tai
'Ông cài lưng khố
'Ông ra ngoài phố
'Ông mua miếng trầu
'Ông nhai nhóp nhép
'Ông mua mớ tép
'Về ông ăn cơm
'Ông mua bó rơm
'Để về ông thổi
'Ông mua cái chổi
'Về ông quét nhà
'Ông mua con gà
'Về cho nhặt thóc
'Ông mua con cóc
'Về thả gầm giường
'Bắt dế bắt giun
'Ông mua nén hương
'Về ông cúng cụ.
-'Xúc xắc xúc xẻ
'Mở cửa tôi vào
'Bước lên giường cao
'Thấy con rồng ấp
'Bước xuống giường thấp
'Thấy con rồng chầu
'Bước ra đằng sau
'Thấy nhà ngói lợp
'Trâu ông còn buộc
'Ngựa ông còn cầm
'Ông sống một trăm
'Mười lăm tuổi lẻ
'Vợ ông sinh đẻ
'Những con đẹp xinh
'Như người trong tranh
'Chúc ông một năm
'Mọi sự tốt lành
'Nếu có kinh doanh
'Làm ăn phấn phát
'Nếu con ăn học
'Thi cử thành đạt
'Nếu làm chuyện khác
'Đều được hanh thông.
-'Lặng nghe kể ngược
'Nai ở dưới nước
'Cá ở trên núi
'Nhẵn nhụi quả mít
'Gai góc quả dưà
'Con kiến thì to
'Con bò bé tí
'Bay cao như dế
'Bay thấp bồ câu
'Ăn mày thì giầu
'Chủ tiệm thì nghèo.
-'Nghe vẻ nghe ve
'Nghe vè nói ngược
'Núi cao đầy nước
'Đáy biển nhiều cây
'Dưới đất lắm mây
'Trên trời lắm cỏ
'Người thì có mỏ
'Chim thì có mồm
'Thẳng như lưng tôm
'Cong như cán cuốc
'Thơm nhất mắm tôm
'Hôi nhất là nhang
'Đặc như ống bương
'Rỗng ruột như gỗ
'Con chó hay mổ
'Gà hay liếm la
'Xù xì quả cà
'Nhẵn như quả mít
'Meo meo là vịt
'Quạc quạc là mèo
'Trâu ưa leo trèo
'Sóc ưa lội nước
'Con rắn thì bước
'Con voi thì bò
'Rụt như cổ cò
'Dài như cổ vịt
'Đỏ như quả quít
'Vàng như quả hồng.
Đáng chú ý là lối giáo dục ngoại ngữ:
-'Cục ta cục tác
'Chữ Kê là gà
'Giữ cửa giữ nhà
'Chữ Khuyển là chó
'Bắt chuột lớn nhỏ
'Chữ Miêu là mèo
'Ăn cám ăn bèo
'Chữ Hợi là heo
'Vừa to vừa béo
'Chữ Tượng là voi
'Ngồi trên bệ coi
'Chữ Phật là bụt
'Ngôi cao tột bậc
'Chữ Vương là vua
'Bắt ốc mò cua
'Chữ Bần là khổ
'Thò tay vào lỗ
'Chữ Nhi là mà
'Lôi cổ kéo ra
'Chữ Đắc là được
'Thuyền bè xuôi ngược
'Chữ Giang là sông
'Phạm tội mang gông
'Chữ Ngục nhốt tù
'Cái gì không nổi
'Chữ Trầm là chìm
'Hai mắt lim dim
'Chữ Ngọ là ngủ
'Mật nấu với củ
'Chữ Trà là chè
'Con mắt đỏ hoe
'Chữ Tửu là rượu.
-'My country quê hương tôi
'Mountain là núi, Hill đồi, Đất land
'Highland là vùng cao nguyên
'Good wife vợ tốt, Good friend bạn hiền
'A fool là một thằng điên
'Highway xa lộ, bạc tiền Money
'Cửa Door, Lock khóa, chìa Key
'Ngoại ô Suburb, City nội thành
'Name tên, Famous nổi danh
'Writter văn sĩ, Smart lanh, Dumb đần
'King vua, Saint thánh, God thần
'Buy mua, Count đếm, Scale cân, Goods hàng
'Hold cầm, Grab chụp, Wear mang
'Grave mồ, Hole lỗ, Cave hang, Trench hầm
'Swim bơi, Dive lặn, Soak ngâm
'Smile cười, Talk nói, Mute câm, Grief sầu
'Street đường, Drain cống, Bridge cầu
'Sail buồm, Wind gió, Ship tàu, Storm giông
'Corn bắp, Rice lúa, Field đồng
'Dig đào, Trim tỉa, Plant trồng, Seed gieo
'Addict nghiã là thật phiền
'Devils là qủy, thần tiên Angels
'Pond ao, Creek lạch, Lake hồ
'Ẩm moist, Wet ướt, Dry khô, Full đầy
'South nam, bắc North, West tây
'East đông, Night tối, Day ngày, Noon trưa
'Donkey tên gọi con lừa
'Tấn công Attack, ngăn ngừa Prevent
'Blue xanh, White trắng, Black đen
Courage dũng cảm, ươn hèn Coward...
Nhận Định
Người Việt còn nhiều lối hát khác vào các dịp vui buồn, lễ hội, như hát Sắc Bùa, hát Quan Họ, hát Trống Quân, hát Xoan, hát Chầu Văn...
Tuy nhiên, theo thiển ý chúng tôi 4 điệu Hát Ru - Hát Hò - Hát Lý - Hát Nhi Đồng thích hợp với việc giáo dục trong nhà trường, vì các lý do:
1/ Bốn điệu hát này đã được một số nhạc sĩ tân nhạc phổ nhạc, như Hát Ru trong các bài Ru Con, Ngậm Ngùi của Phạm Duy... Hát Hò như bài Tiếng Dân Chài của Phạm Đình Chương... Hát Lý như bài Lý Ngựa Ô, Lý Con Sáo... Hát Nhi Đồng như các bài về Tết Trung Thu... đều đã được ghi âm nhiều lần, nên có sẵn một số thí dụ cụ thể hấp dẫn, dễ bắt chước.
2/ Hình thức hát tương đối dễ, lại không đòi hỏi các điều kiện về không gian - thời gian - nhạc cụ...
3/ Nội dung nhiều bài kèm theo trò chơi, thích hợp với việc giáo dục sinh động của nhiều cấp lớp khác nhau.
Do vậy một khi dạy ca dao qua các bài hát thích hợp sinh động, sẽ giúp giờ học vui tươi, giới trẻ ưa thích mà không buồn chán, nên dễ thấm nhuần hơn. Đây chính là lối giáo dục 'vừa học vừa chơi' hiện đại.
Hát Đồng Dao giữ vai trò rất mực quan trọng trong giáo dục đầu đời của trẻ, nên chúng tôi xin trích dẫn ý kiến của một số tác giả về Đồng Dao, liên quan đến vấn đề Giáo Dục, để rộng đường tìm hiểu, nghiên cứu.
Vì Đồng Dao chính là khởi đầu của vấn đề giáo dục tinh thần và truyền thống quốc gia vô cùng cao đẹp, biểu hiện sự kế thừa ra sao, tiếp nối như thế nào, nên có tầm quan trọng rất mực cho sự phát huy tinh thần Quốc gia & Dân tộc, nhưng đã bị coi nhẹ và sao lãng bấy nay. Do vậy hơn bao giờ hết, chúng ta cần phục hồi phát huy trong mọi hoàn cảnh, dù không gian & thời gian khác biệt và cách biệt.
Copyright © 2024 Giao Su XKZ - All Rights Reserved.
Powered by GoDaddy
We use cookies to analyze website traffic and optimize your website experience. By accepting our use of cookies, your data will be aggregated with all other user data.