Nhà Hậu Lê gồm 10 đời vua, trị vì gần 100 năm, sau đó còn trung hưng kéo dài thêm 100 nữa khi bị các họ Mạc - Trịnh - Nguyễn mượn danh nghiã để phân tranh:
1/ Lê Thái Tổ (1428 - 1433)
2/ Lê Thái Tông (1434 -1442)
3/ Lê Nhân Tông (1443 -1450)
4/ Lê Thánh Tông (1450 - 1497)
5/ Lê Hiến Tông (1497 - 1505)
6/ Lê Túc Tông (1505)
7/ Lê Uy Mục (1504 - 1509)
8/ Lê Tương Dực (1509 - 1516)
9/ Lê Chiêu Tông (1516 - 1524)
10/ Lê Cung Hoàng (1524 - 1527).
Cha là Lê Khoáng, trại chủ đất Lam Sơn, mẹ họ Trịnh.
Nhà vua họ Lê, tên húy là Lợi, sinh ngày 6-8 năm Ất Sửu (1385), người làng Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn Thanh Hóa, làm vua 6 năm, thọ 51 tuổi.
Lê Lợi sinh ra có thiên tư tuấn tú khác thường, thần sắc tinh anh kỳ vĩ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, trên vai có một nốt ruồi, tiếng nói như chuông, dáng đi tựa rồng, nhịp bước như hổ.
Bấy giờ đất nước loạn ly từ khi nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần, bị nhà Minh bên Tàu qua đánh dẹp cai trị đất nước, thực hiện một chế độ hà khắc với dân chúng, nhưng dùng chức tước mua chuộc giới quan lại, nên phần nào ổn định được tình hình.
Khi Đặng Tất, Nguyễn Súy lập con cháu nhà Trần chống nhau với quân Minh, Lê Lợi thấy con cháu nhà Trần không phải bậc minh quân, giết hại công thần là Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân... nên náu mình ẩn thân, từ chối mọi sự mua chuộc, tự lo thu dụng nhân tài, chiêu binh mãi mã, chờ ngày dấy binh diệt trừ giặc ngoại xâm.
Lê Lợi từng bày tỏ chí lớn với mọi người:
'-Ta cất quân đánh giặc, không phải là có lòng ham muốn phú qúy, mà chính vì muốn để ngàn năm về sau, người đời biết ta không chịu làm tôi tớ cho bọn giặc tàn ngược'.
Khi thấy quân Minh dùng lợi lộc mua chuộc, Lê Lợi nói:
'-Bậc trượng phu sinh ra ở đời phải cứu nạn lớn, lập công to, lưu lại tiếng thơm ngàn năm sau; sao lại chịu hèn nhát để cho người sai khiến?'.
Chính nhờ có chính khí như trên, Lê Lợi đã một lòng đánh giặc cứu nước, dù gặp bao phen nguy khốn vợ con bị giặc bắt giết, rồi lại dụ hàng... vẫn không nản lòng.
Trải 10 năm chiến đấu gian khổ, Lê Lợi đã đánh đuổi được quân Minh, đem lại sự thanh bình thịnh trị cho quốc gia & dân tộc trong 100 năm.
**10 năm đánh quân Minh
Mùa xuân năm Mậu Tuất 1418, Lê Lợi cùng với các tướng Lê Thạch, Lê Liễu... khởi binh ở núi Lam Sơn, tự xưng là Bình Định Vương, truyền hịch kể tội quân Minh tham tàn bạo ngược. Lúc đầu thế lực còn kém, dẫu đánh thắng vài ba trận, nhưng vẫn chưa đủ sức đương đầu, nên 3 lần thua phải chạy về núi Chí Linh:
1/ Về Chí Linh lần thứ nhất:
Tháng giêng năm 1418, khi nghe tin Lê Lợi khởi binh, đưa quân đóng ở Lạc Thủy, tướng nhà Minh là Mã Kỳ đem quân tới đánh, bị Lê Lợi phục binh đánh thắng.
Nhưng 3 ngày sau bị tên Ái phản bội, dẫn đường cho quân Minh đi lối tắt đánh úp, bắt mất gia thuộc của nhà vua và rất nhiều vợ con của quân dân. Quân sĩ chán nản bỏ đi nhiều. Lê Lợi phải cùng các tướng Lê Lễ, Lê Náo, Lê Bí, Lê Xí... bí mật ẩn náu trên núi. Đến khi hết lương, quân Minh rút đi, Lê Lợi mới cùng các tướng về Lam Sơn dựng lại cơ đồ.
2/ Về Chí Linh lần thứ hai:
Tháng 4-1419, Lê Lợi đem quân ra đánh lấy đồn Nga Lạc, Thanh Hóa, giết được tướng nhà Minh là Nguyễn Sao. Quân Minh đem đại binh đến, Lê Lợi phải chạy về Chí Linh lấn thứ 2. Quân Minh đuổi theo bủa vây Chí Linh rất chặt chẽ không thể chạy thoát, Lê Lai phải liều mình cứu chúa, mặc áo ngự bào của nhà vua cưỡi coi xung trận. Quân Minh tưởng Lê Lai là Lê Lợi, vây đánh giết Lê Lai rồi rút về Tây Đô.
Nhờ vậy Lê Lợi chạy thoát, đem tàn quân đóng ở Lư Sơn.
Ngay trong năm, nhiều quan quân Việt theo quân Minh đã bỏ về giúp Lê Lợi.
Năm 1420 Nguyễn Trãi về giúp, dâng sách 'Bình Ngô', Lê Lợi thấy kế hoạch quang phục rất hay, dùng làm tham mưu.
**Danh thần Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi là con của Bảng nhãn Nguyễn Phi Khanh, đỗ tiến sĩ năm 1400 đời nhà Hồ. Khi Nguyễn Phi Khanh bị bắt đưa về Tàu, ông theo cha đến ải Nam Quan, thì cha ông bảo:
'-Con phải trở về lo trả thù cho cha, rửa thẹn cho nước, chứ đi theo khóc lóc mà làm gì?'.
Nguyễn Trãi nghe lời cha dặn, trở về nghiên cứu mưu kế phục quốc, viết thành sách 'Bình Ngô'. Khi thấy Lê Lợi chiêu hiền đãi sĩ, đã tới giúp Lê Lợi.
Buổi đầu Nguyễn Trãi lợi dụng sự mê tín của dân, sai người lên rừng lấy mật viết lên những chiếc lá cây lớn 8 chữ 'Lê Lợi vi quân - Nguyễn Trãi vi thần', để loài kiến ăn mật đục thành hình 8 chữ trên lá cây. Khi mùa thu lá rụng theo dòng nước trôi, dân hai bên sông thấy lá có chữ viết, tin tưởng, theo giúp Lê Lợi rất đông.
Trong và sau cuộc chiến với quân Minh, Nguyễn Trãi giúp Lê Lợi soạn thảo các văn bản về dân vận, quân sự, ngoại giao... vừa được lòng người trong nước, vừa khiến quân Minh từ ưng thuận cầu hòa đến rút binh khỏi Việt Nam, chấp nhận để nhà Lê thay nhà Trần... công lao rất lớn.
Ngoài áng văn tuyệt tác Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi có tác phẩm Gia Huấn Ca, nhằm giáo dục con cái những điều tốt, phát huy tình thương yêu chăm sóc quan tâm giữa mọi người.
Khi về Côn Sơn trí sĩ, Nguyễn Trãi mở trường dạy học, đào tạo nhân tài, chứng tỏ ông rất chú trọng đến vấn đề giáo dục, khuyến học, tạo nên không khí học tập hưng thịnh về sau; giúp việc học thời vua Lê Thánh Tôn đào tạo thêm nhiều nhân tài văn học, cùng nhà vua thành lập Tao Đàn xướng họa thi ca đề cao nhân luân, theo chiều hướng nghệ thuật vị nhân sinh. Cụ thể như dòng thơ 'khẩu khí' của vua Lê Thánh Tôn...
[Nhan Chi Thôi (531 - ?) đời nhà Lương, tác giả Nhan thị Gia huấn, nội dung giáo dục không chỉ hạn hẹp vào tiểu gia đình, đại gia đình, mà còn bước ra ngoài xã hội, với phạm vi rất rộng. Ông cho rằng trẻ con cần được người ngoài gia đình dạy bảo, nhưng người lớn lại cần đến vợ con trong gia đình khuyên bảo. Trước họ Nhan, ở Trung Quốc chưa có ai phân tích tác dụng đặc thù giữa các thành viên trong gia đình. Ông chủ trương dạy trẻ từ trong bào thai (Thai Giáo), cha mẹ dạy con cần 'uy nghiêm' nhưng 'từ ái' - là hai điều không thể nghiêng về bên nào. Nếu đông con phải hết sức công bằng. Cha mẹ phải lấy chính mình làm gương sáng cho các con, từ ngôn ngữ đến hành động, không chê người mà cũng không tự khen mình, không để cho con ỷ lại vào mình. Do vậy mà sách Nhan thị Gia huấn trở thành tài liệu giáo dục chủ yếu của Trung Quốc cổ đại. có địa vị quan trọng bậc nhất trong lịch sử giáo khoa Trung Quốc.]
Tháng 11-1421, tướng nhà Minh là Trần Trí cùng quân Lào đến đánh, bị Nguyễn Trãi dụng mưu phá tan.
3/ Về Chí Linh lần thứ ba:
Năm 1422 Lê Lợi đem quân đánh đồn Quan Gia, bị quân Minh phối hợp với quân Lào vây hãm. Quân Lào lại giả làm quân cứu viện Lê Lợi, rồi bất thình lình đánh úp, khiến Lê Lợi phải mở đường máu mới chạy thoát về Chí Linh. Lương thực không có, phải giết voi ngựa để ăn. Nguyễn Trãi bàn tạm cầu hòa với quân Minh để có thời gian phục hồi binh lực. Lúc đó Tổng binh quân Minh là Lý Bân bịnh chết, quân Minh cũng muốn tạm án binh, nên chấp nhận sự cầu hòa của Lê Lợi.
Năm 1424 vua Minh đem quân đánh rợ Hồ, bịnh chết, Thái tử Cao Xí lên ngôi nên không muốn động binh. Lê Lợi nhân dịp này đem quân đánh chiếm đồn Đa Căng ở Thanh Hóa, tướng Minh là Lương Nhữ Hốt chỉ chạy thoát thân được một mình. Lê Lợi thừa thắng tiến đánh chiếm Trà Long.
Từ khi Lê Lợi khới nghiã đến lúc đó, bọn Minh cầm quyền tại nước ta vẫn coi thường, không báo về cho bên Tàu biết. Chỉ khi triều đình nhà Minh sai Binh bộ thượng thư Trần Hiệp sang thay Hoàng Ngũ Phúc, Trần Hiệp thấy thanh thế Lê Lợi lừng lẫy, mới tâu về .
Minh Đế trách mắng bọn Trần Trí, Phương Chính, bắt phải mau chóng đánh dẹp.
Nhưng lúc đó thế lực của Lê Lợi đã lớn, được Nguyễn Trãi tham mưu ra huấn lệnh nghiêm cấm quân sĩ xâm phạm tài sản dân chúng, nên được lòng dân, đủ thế mạnh tiến đánh ra phía Bắc.
Năm 1425 Lê Lợi chiếm Tây Đô.
Năm 1426 Lê Lợi tiến ra Đông Đô vây hãm, khiến Vương Thông phải xin hòa lần thứ nhất, nhưng để giữ thể diện Vương Thông đòi Lê Lợi phải lập con cháu nhà Trần lên nối ngôi.
Do thấy đánh nhau mãi khiến dân tình điêu linh, Lê Lợi chấp nhận, lập Trần Cảo lên ngôi, còn Lê Lợi xưng làm Vệ Quốc Công, để cầu phong với triều đình nhà Minh.
Vương Thông gọi quân các nơi về Đông Đô để toan rút về Tàu như đã ước định, nhưng một số người Nam theo Tàu như Trần Phong, Lương Nhữ Hốt... lấy chuyện Ô Mã Nhi bị giết, khuyên Vương Thông đừng rút quân.
Vương Thông đổi ý, đào hào phòng bị, cho người đưa thư về Tàu cầu cứu.
Lê Lợi bắt được người đưa thư, đem quân vây đánh, quân Minh thế yếu phải ra đầu hàng ở nhiều nơi. Do khinh địch, một số tướng của Lê Lợi bị quân Minh tập kích giết như Lý Triện, Đinh Lễ.
Tháng 10-1427, nhà Minh cử Liễu Thăng và Mộc Thạnh đưa đại binh sang cứu viện. Liễu Thăng bị các tướng Lê Sát, Trần Lựu đón đánh rồi giả thua bỏ chạy. Liễu Thăng khinh thường, chỉ đem 100 kỵ binh đuổi theo, bị phục binh giết ở Chi Lăng. Mộc Thạnh biết tin không dám tiến binh, rút ngay về Tàu.
Vương Thông thấy Liễu Thăng bị giết, viện binh bị đánh tan, phải xin hòa lần thứ hai, rồi rút quân về Tàu theo đúng giao ước.
Trần Cảo được Lê Lợi cho đứng tên tờ biểu xin cầu phong với triều đình nhà Minh.
Sau 10 năm, Lê Lợi đã đánh đuổi được quân Minh, đem lại thanh bình cho đất nước.
Nguyễn Trãi làm bài Bình Ngô Đại Cáo bằng chữ Hán, là một áng văn hào hùng. thể hiện tâm chí anh hùng chống xâm lăng, bảo vệ đất nước của dân tộc Việt.
Sử gia Trần Trọng Kim dịch Bình Ngô Đại Cáo ra tiếng Việt như sau:
'Tượng mảng:
'Việc nhân nghiã cốt ở yên dân, quân điếu phạt chỉ vì khử bạo.
'Như nước Việt ta từ trước, vốn xưng văn hiến đã lâu. Sơn hà cương vực đã chia, phong tục bắc nam cũng khác.
'Từ Đinh, Lê, Lý, Trần, gây nền độc lập; cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, hùng cứ một phương. Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có.
'Vậy nên:
'Lưu Cung sợ uy mất vía, Triệu Tiết nghe tiếng giật mình. Cửa Hàm Tử giết tươi Toa Đô, sông Bạch Đằng bắt sống Ô Mã. Xét xem cổ tích, đã có minh trưng.
'Vừa rồi:
'Vì họ Hồ chính sự phiền hà, để trong nước nhân dân oán hận. Quân cuồng Minh đã thừa cơ tứ ngược, bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ dưới hầm tai vạ. Chước đối thủ muôn nghìn khóe, ác chứa ngót 20 năm. Bại nhân nghiã, nát cả càn khôn; nặng khoa liễm, vét không sơn trạch.
'Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò châu, nào hố bẫy hươu đen, nào lưới đó chim cá. Tàn hại cả côn trùng thảo mộc; nheo nhóc thay quan quả điên liên. Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán. Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa. Nặng nề về những nỗi phu phen, bắt bớ mất cả nghề canh cửi.
'Độc ác thay! trúc rừng không ghi hết tội. Dơ bẩn thay! nước bể không rửa sạch mùi. Lẽ nào trời đất tha cho, ai bảo thần nhân nhịn được?!
'Ta đây:
'Núi Lam Sơn dấy nghiã, chốn hoang dã nương mình. Ngắm non sông căm nỗi thế thù, thề sống chết cùng quân nghịch tặc. Đau lòng nhức óc, chốc là mười mấy nắng mưa; nằm gai nến mật, há phải một hai sớm tối.
'Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh; ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ. Những trằn trọc trong cơn mộng mị, chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi. Vừa khi cờ nghiã dấy lên, chính lúc quân thù đang mạnh.
'Lại ngặt vì:
'Tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu. Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần, nơi duy ác hiếm người bàn bạc. Đôi phen vùng vẫy, vẫn đăm đăm con mắt dục đông; mấy thuở đợi chờ, luống đằng đẵng cỗ xe hư tả. Thế mà trông người, người càng vắng ngắt, vẫn mịt mờ như kẻ vọng dương; thế là tự ta, ta phải lo toan, thêm vội vã như khi chửng nịch.
'Phần thì giận hung đồ ngang dọc, phần thì lo quốc bộ khó khăn. Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần, Lúc Khôi Huyện quân không một lữ. Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng, bắt trải qua bách triết thiên ma, cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử.
'Múa đầu gậy, ngọn cờ phất phới, ngóng vân nghê bốn cõi đan hồ. Mở tiệc quân, chén rượu ngọt ngào, khắp tướng sĩ một lòng phụ tử. Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi; quân giặc nhiều, ta ít mà ta được luôn.
'Dọn hay:
'Đem đại nghiã để thắng hung tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo.
'Trận Bồ Đằng sấm vang sét dậy, miền Trà Lân trúc phá tro bay.
'Sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh. Trần Trí, Sơn Thọ mất vía chạy tan; Phương Chính, Lý An tìm đường trốn tránh.
'Đánh Tây Kinh phá tan thế giặc, lấy Đông Đô thu lại cõi xưa. Dưới Ninh Kiều máu chảy thành sông, bến Tụy Động xác đầy ngoài nội. Trần Hiệp đã thiệt mạng, Lý Lương lại phơi thây. Vương Thông hết cấp lo lường, Mã Anh không đường cứu đỡ. Nó đã trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao; ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu khuất. Tưởng nó phải thay lòng đổi dạ, hiểu lẽ tới lui; ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội nghiệt.
'Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người; tham công một thời, chẳng bỏ bày trò dơ duốc. Đến nỗi đứa trẻ ranh như Tuyên Đức, nhàm võ không thôi; lại nhút nhát như Thạnh Thăng, đem dầu chữa cháy.
'Năm Đinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng từ Khâu Ôn tiến sang; lại năm này tháng mười, Mộc Thạnh từ Vân Nam kéo đến. Ta đã điều binh giữ hiểm để ngăn lối Bắc quân; ta lại sai tướng chẹn ngang để tuyệt đường lương đạo.
'Mười tám Liễu Thăng thua ở Chi Lăng, hai mươi Liễu Thăng chết ở Mã Yên. Hai mươi lăm, Lương Minh trận vong, hai mươi tám Lý Khánh tự vẫn.
'Lưỡi dao ta đang sắc, ngọn giáo giặc phải lùi. Lại thêm quân bốn mặt vây thành, hẹn đến rằm tháng mười diệt tặc. Sĩ tốt ra oai tì hổ, thần thứ đủ mặt trảo nha. Gươm mài đá núi cũng mòn; voi uống nước nước sông phải cạn.
'Đánh một trận sạch không kình ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông.
'Cơn gió to trút sạch lá khô, tổ kiến hổng sụt toang đê cũ.
'Thôi Tụ phải quỳ mà xin lỗi, Hoàng Phúc tự trói để ra hàng.
'Lạng Giang, Lạng Sơn thây chết đầy đường; Xương Giang, Bình Than máu trôi đỏ nước.
'Gớm ghê thay! sắc phong vân cũng đổi. Thảm đạm thay! sáng nhật nguyệt phải mờ.
'Binh Vân Nam nghẽn ở Lê Hoa, sợ mà mất mật; quân Mộc Thạnh tan chưn Cần Trạm, chạy để thoát thân.
'Suối máu Lãnh Câu, nước sông rền rĩ; thành xương Đan Xá, cỏ nội đầm đìa.
'Hai mặt cứu binh, cắm đầu trốn chạy; các thành cùng khấu, cởi giáp xuống đầu.
'Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tội; thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh.
'Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiến thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực. Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ hôi.
'Nó đã sợ chết cầu hòa, ngỏ lòng thu phục; ta muốn toàn quân là cốt, cả nước nghỉ ngơi.
'Thế mới là mưu kế thật khôn, vả lại suốt xưa nay chưa có. Giang sơn từ đây mở mặt, xã tắc từ đây vững nền.
'Nhật nguyệt hối mà lại minh, càn khôn bĩ mà lại thái.
'Nến vạn thế xây nên chăn chắn, thẹn nghìn thu rửa sạch làu làu. Thế là nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng che chở, giúp đỡ cho nước ta vậy.
'Than ôi!
'Vẫy vùng một mảnh nhung y nên công đại định, phẳng lặng bốn bề thái vũ mở hội vĩnh thanh.
'Báo cáo xa gần, ngỏ cùng nghe biết.
**Việc Ngoại giao:
Buổi đầu vì phải lấy cớ lập con cháu nhà Trần để cầu hòa với nhà Minh, cho nên Lê Lợi mới lập Trần Cảo lên làm vua. Nay đã đánh thắng quân Minh, không thể để Trần Cảo tồn tại, nên Lê Lợi đã giết Trần Cảo năm 1428, rồi sai người nói với nhà Minh là con cháu nhà Trần không còn ai nữa, để xin được phong vương.
[Điều kỳ lạ là sau này khi nhà Lê suy đồi, có một nhân vật cũng có tên là Trần Cảo nổi lên đánh phá. Người ta cho đó là oan hồn Trần Cảo tái sinh trả oán nhà Lê?]
Sau khi được nhà Minh chấp thuận phong vương, Lê Lợi chính thức lên làm vua, tức là vua Lê Thái Tổ, đặt quốc hiệu là Đại Việt, phải chấp nhận 3 năm triều cống nhà Minh 1 lần. Trong đồ cống phải có tượng 2 người bằng vàng, để thế mạng cho 2 viên tướng nhà Minh là Liễu Thăng và Lương Minh đã bị giết.
Việc cầu phong và triều cống nước Tàu là do nước ta nhỏ, không thể tự cường với nước Tàu gần kề quá lớn, hầu tránh bớt nạn binh đao.
**Việc Nội trị:
Vua Lê Thái Tổ lên ngôi, phong thưởng cho các công thần: Nguyễn Trãi đứng đầu bên văn quan, Lê Vấn đứng đầu bên võ quan, cho 227 người có công lớn được hưởng quốc tính, đổi thành họ Lê.
-Về Giáo dục:
Nhà vua sửa sang việc học, mở trường Quốc Tử Giám ở kinh đô, mở Nhà Học ở các phủ lộ. Bắt các quan văn võ từ hàng Tứ Phẩm trở xuống phải học để thi. Các tu sĩ Phật Giáo và Lão Giáo cũng phải học để thi, ai không đạt tiêu chuẩn phải trở về làm ăn. Những người ẩn dật phải ra ứng thí, mới được trọng dụng.
-Về Luật pháp:
Nhà vua đặt ra luật mới phỏng theo luật nhà Đường bên Tàu. Riêng những ai được liệt vào hàng Bát Nghị, khi phạm tội sẽ được cứu xét giảm tội. Ai chơi cờ bạc bị phạt chặt ngón tay, ai phạm tội nặng bị chém cổ.
Khi đã công thành, nhà vua trở nên đa nghi, nghe lời gièm pha giết oan nhiều công thần như Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn, Thái úy Phạm Văn Xảo...
-Về quân sự:
Nhà vua lập công điền, công thổ, để cấp đất cho người có công. Giảm đội quân từ 250.000 xuống còn 100.000 người, lại chia làm 5 phiên chỉ 1 phiên ở lại túc trực, còn 4 phiên kia về làm ruộng, thay nhau hàng năm.
-Về Cai trị:
Nhà vua chia nước làm 5 đạo, mỗi đạo có quan Hành khiển cai trị. Các xã chia làm 3 loại: Đại xã có hơn 100 hộ, Trung xã có hơn 50 hộ, Tiểu xã có 10 hộ. Mỗi xã có Xã quan cai trị.
Vua Lê Thái Tổ làm vua được 6 năm thì mất, thọ 49 tuổi.
Lê Nguyên Long là con thứ vua Thái Tổ, mẹ họ Phạm, sinh ngày 21-11 năm Qúy Mão (1423), được lập làm thái tử ngày 6-1 năm Kỷ Dậu (1429), lên ngôi ngày 8-9 năm Qúy Sửu (1433)
Vua Thái Tông lên ngôi năm 11 tuổi, nên quyền hành do quan Phụ chính Lê Sát quyết định. Lê Sát ít học, do có công lớn với vua Thái Tổ nên được chức cao, thường cậy quyền, hãm hại người chính trực.
Vua Thái Tông tuy trẻ tuổi, nhưng thông minh, lên ngôi được ít lâu thấy Lê Sát làm nhiều điều bất chính liền giết đi, nắm lại quyền hành. Do còn trẻ lại không có người phù tá, nên sớm lâm vòng tửu sắc mà qua đời.
Nhà vua có thực hiện được vài điều cải cách đáng kể như:
-Về Giáo dục:
Đặt lệ 5 năm mở kỳ thi Hương, 6 năm mở kỳ thi Hội. Năm 1442 mở khoa thi Tiến sĩ, ai đỗ đều được khắc tên vào bia đá ở Văn miếu.
-Về Quân sự:
Mấy năm bị thiên tai, đại hạn, dân tình khổ sở. Ở vùng mường mán có mấy đám giặc nổi lên, đều bị dẹp tan.
-Về Ngoại giao:
Nhờ võ công hiển hách đánh thắng quân Minh của Lê Thái Tổ, các nước lân bang như Tiêm La (Thái Lan), Chiêm Thành, Ai Lao đều cử sứ thần tới tiến cống.
Tháng 7 năm Nhâm Tuất 1442, vua Thái Tông đi duyệt binh ở Chí Linh, vào thăm ông Nguyễn Trãi về trí sĩ ở Côn Sơn, bắt người hầu rất tài sắc của Nguyễn Trãi là Thị Lộ hầu hạ, đến Bắc Ninh thì đột tử. Triều đình bắt tội Thị Lộ giết vua, tru di 3 họ nhà Nguyễn Trãi.
Vua Thái Tông làm vua được 9 năm, thọ 20 tuổi.
Lê Bang Cơ là con thứ 3 vua Thái Tông, mẹ họ Nguyễn, sinh ngày 9-6 năm Tân Dậu (1441), được lập làm thái tử ngày 16-11, được lên ngôi ngày 8-12 năm Nhâm Tuất (1442).
Khi vua Thái Tông mất, Thái tử Bang Cơ mới 2 tuổi, được Lê Khả, Nguyễn Xí tôn làm vua, để Hoàng Thái Hậu thính chính.
Hoàng thái hậu hay nghe những lời gièm pha, giết các quan cựu thần như Lê Khả, Lê Khắc Phục...
Đến năm Qúi Dậu 1453, vua Nhân Tông mới bắt đầu nắm quyền, truy tặng các công thần bị giết hại.
Vua Nhân Tông là một vị vua hiền, nhưng không may bị người anh là Nghi Dân hãm hại - Nghi Dân trước đã được làm Thái tử, sau vì mẹ mắc tội nên bị truất bỏ.
Năm 1459 Nghi Dân cùng đồng bọn nửa đêm đột nhập hoàng thành, giết vua Nhân Tôn và Hoàng thái hậu, tự xưng làm vua, rồi cho sứ sang Tàu cầu phong.
Vua Nhân Tông ở ngôi được 17 năm, thọ 19 tuổi.
Lê Tư Thành là con thứ tư của vua Thái Tông, mẹ họ Ngô, sinh ngày 20-7 năm Nhâm Tuất (1442), được tôn lên ngôi ngày 8-6 năm Canh Thìn (1460), chỉ 2 ngày sau khi Nghi Dân bị giết.Nghi Dân cướp ngôi vua được 8 tháng, do ưa nghe lời xu nịnh, giết nhiều cựu thần can ngăn, nên không được ai tin phục.
Tháng 6 năm Canh Thìn 1460, các quan đại thần Nguyễn Xí, Đinh Liệt đã đứng ra chấn chỉnh triều chính, giết Nghi Dân và đồng bọn, rước người con thứ tư của vua Thái Tông là Bình Nguyên Vương Tư Thành lên làm vua, tức là vua Thánh Tông, lấy niên hiệu là Quang Thuận (1460 - 1469) rồi đổi thành Hồng Đức (1470 - 1497)
.Thánh Tông là một vị vua thông minh tài đức, thờ mẹ rất có hiếu, ở với bề tôi rất bao dung, sửa sang chính trị, phát triển giáo dục, chỉnh đốn võ bị, mở mang bờ cõi... được coi là một vị vua giúp quốc gia dân tộc phát huy cường thịnh nhất trong lịch sử dân tộc.
**Việc Nội trị:
Để sửa chữa các điều sai lầm bất công của các vị vua tiền nhiệm, vua Thánh Tông truy tặng các vị công thần bị giết oan, cho tìm dòng dõi của Nguyễn Trãi cấp 100 mẫu ruộng để thờ phượng.
Những người từng bị Lê Lợi ban quốc tính theo họ Lê, nay được khôi phục họ cũ trở lại, để khỏi bị mất dòng họ của tổ tiên.
-Về Cai trị:
Trước kia nhà Lê vẫn theo hệ thống cai trị của nhà Trần, đến Nghi Dân mới lập Lục Bộ (gồm bộ Lại, bộ Hộ, bộ Lễ, bộ Binh, bộ Công, bộ Hình); có Lục Khoa kiểm soát.
Thánh Tông đặt thêm Lục Tự để gia tăng việc quản lý.Vua Thái Tổ chia nước làm 5 đạo, nay vua Thánh Tông chia lại thành 12 đạo để có thể điều hành chặt chẽ hơn trước, đặt thêm quan Giám sát Ngự sử đi kiểm tra các đạo, cho khỏi bị nhũng nhiễu.
Sau có đất Quảng Nam chiếm thêm của Chiêm Thành, mà thành 13 đạo.
Từ trước đến nay Việt Nam chưa có địa đồ, nên nhà vua sai người vẽ địa đồ, ghi lại các điển tích của các địa phương, để viết thành sách địa dư.
Lại sai Ngô Sĩ Liên làm bộ Đại Việt Sử Ký ghi chép lịch sử Việt Nam từ đời Hồng Bàng đến đời Lê Thái Tổ.-Về Canh nông:
Nhà vua rất chú trọng việc no ấm của dân chúng, ra lệnh các quan giúp dân phát triển việc cấy lúa, trồng dâu nuôi tằm.
Ngài đặt thêm quan Hà đê và Khuyến nông lo việc nông tang, bắt khai báo đất hoang để đốc thúc các địa phương khẩn hoang, gia tăng diện tích canh tác.
Lập 42 sở đồn điền trông coi việc khẩn hoang, không để dân đói khổ.
Ruộng đất chia làm 3 hạng để đóng thuế cho công bằng.-
Về xã hội:
Thấy dân sùng Phật Giáo làm nhiều chùa, lại bày ra nhiều sự ăn uống hát xướng khi có lễ tang hôn... nên nhà vua cấm xây thêm chùa mới, giảm các hủ tục về tang hôn, đặt ra 24 điều răn để quan dân từ thành thị, thôn quê đến các vùng rừng núi, phải tuân hành theo thuần phong mỹ tục.
Nhà vua sai ông Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận soạn bộ Thiên Nam Dư Hạ tập, soạn Hình luật thời Hồng Đức - được coi là một bộ luật có tinh thần dân chủ, và bình đẳng nam nữ... giá trị nhất từ trước đến nay của nước ta
.-Về Giáo dục:
Vua Thánh Tông định phép thi Hương, sửa phép thi Hội, lập ra lệ cho các người đỗ tiến sĩ được tổ chức vinh qui bái tổ.
Mở rộng nhà Thái Học, làm thêm thư viện và phòng ốc cho học sinh ăn ở tra cứu học hành
.Ngài thành lập Tao Đàn, làm Tao Đàn Nguyên súy cùng 28 quần thần làm thơ xướng họa, hình thành loại thơ vịnh khẩu khí, mang tính giáo dục anh hùng tính vì dân & nước cao, được hậu thế dùng để trích giảng trong nhà trường.-
Về Quân sự:
Thánh Tông quan niệm muốn cường thịnh cần phải có quân đội hùng mạnh, nên bắt tướng sĩ chăm chỉ luyện tập, đặt ra 31 điều quân lệnh cho thủy binh, 42 điều quân lệnh cho bộ binh.
Cứ 3 năm mở một kỳ thi võ, quan quân ai đỗ được thưởng, ai trượt bị phạt, nên từ quan đến quân luôn phải lo tập luyện chăm chỉ.
Nhờ vậy nhà vua mới có thể dẹp các đám giặc trong nước, đánh thắng Chiêm Thành (1470), Lão Qua và Bồn Nam (1479).
**Việc Ngoại giao:
Tuy phải theo lệ xưng thần với nhà Minh, nhưng vua Thánh Tông vẫn đề phòng Bắc Quân, thường nói với triều thần rằng
:'-Ta phải giữ gìn bờ cõi cẩn trọng, không để cho ai lấy một phân núi, một tấc sông của vua Thái Tổ để lại'
.Nhà Minh thấy võ công của nước ta rất hiển hách qua các việc đánh dẹp thu phục Chiêm Thành, Lão Qua, Bồn Man... thì không còn có ý dòm ngó xâm lược, lấy lễ nghiã đối đãi, giữ hòa khí.
Lê Thánh Tông làm vua được 38 năm, thọ 56 tuổi.
Sử gia Trần Trọng Kim nhận định:
'Xem những công việc của vua Thánh Tông, thì ngài thật là một đấng anh quân. Những sự văn trị và sự võ công ở nước Nam ta không có đời nào thịnh hơn đời Hồng Đức.
Nhờ có vua Thái Tổ thì giang sơn nước Nam ta mới còn, và nhờ có vua Thánh Tông thì văn hóa nước ta mới thịnh.
Vậy nên người An Nam ta không bao giờ quên công đức của hai ông vua ấy.
[Tống Thái Tổ - Triệu Khuông Dẫn (927 - 976) rất coi trọng trí thức, dùng nó chỉ đạo thực tiễn. Ông nhiều lần hạ chiếu cầu hiền, cải cách khoa cử, tự chủ trì khảo thí, hạn chế đặc quyền trong khoa cử, cung cấp điều kiện cho kẻ sĩ nghèo tiến thân. Ông chủ trương các võ tướng cũng phải đọc sách, khích lệ các lời nói thẳng, bảo vệ tự do ngôn luận, ưu đãi bao dung cả Tam Giáo, mở đường cho tinh thần kết hợp Tam Giáo, mang ý nghiã cực kỳ quan trọng.]
Lê Tranh là con trưởng vua Thánh Tông, mẹ họ Nguyễn là con gái Trình Quốc công Nguyễn Đức Trung, sinh ngày 10-8 năm Tân Tỵ (1461), được lập làm thái tử tháng 3 năm Nhâm Ngọ (1462), lên ngôi tháng 2 năm Đinh Tỵ (1497).
Thái tử Tranh nối ngôi là vua Hiến Tông, niên hiệu Cảnh Thống.Ngài là vị vua thông minh đôn hậu, thường nói chuyện với các quan sau buổi thiết triều, dùng lời lẽ hòa nhã bảo ban mà không trách mắng ai bao giờ
.Vua Hiến Tông thường nói rằng:
'Vua Thái Tổ đã dựng nên cơ đồ, vua Thánh Tông đã sửa sang mọi việc, ta nay chỉ nên lo giữ gìn nếp cũ, mở mang sự nhân chính ra cho sáng tỏ công đức của ông cha trước'.
Do vậy dưới triều đại của vua Hiến Tông vẫn theo như đời Hồng Đức, thịnh trị không có giặc giã.Nhà vua hết sức chăm lo việc giáo dục và canh nông, mở mang dân trí và giúp dân no ấm rất mực.
Vua Hiến Tông trị vì được 7 năm, thọ 44 tuổi.
Lê Thuần là con thứ 3 của vua Hiến Tông, mẹ họ Nguyễn tên Hoàn, sinh ngày 3-8 năm Mậu Thân (1488), được lập làm thái tử tháng 12 năm Kỷ Mùi (1499), lên ngôi tháng 6 năm Giáp Tí (1504)
.Vua Hiến Tông mất, truyền ngôi cho người con thứ ba là Thuần, tức là vua Túc Tông.Túc Tông làm vua được 6 tháng thì mất.
Triều đình tôn người anh thứ hai của ngài là Tuấn lêm làm vua, tức vua Lê Uy Mục.
Lê Tuấn là con thứ 2 vua Hiến Tông, mẹ họ Nguyễn tên Cận, sinh ngày 5-5 năm Mậu Thân (1488), lên ngôi tháng 12 năm Giáp Tí (1504).
Từ vua Lê Uy Mục về sau, nhà Lê không còn vị vua nào nhân chính, thường đam mê tửu sắc, làm nhiều điều tàn ác, nên gây ra nhiều sự nhiễu nhương bất ổn định, trong triều tranh đoạt, ngoài triều giặc giã.
Uy Mục mới lên ngôi đã giết tổ mẫu là Thái Hoàng hậu, giết Lễ bộ Thượng thư Đàm Văn Lễ, Đô ngự sử Nguyễn Quang Bật, vì những người này biết nhà vua xấu tính xấu nết, làm hại việc triều chính khi nắm quyền... nên không thuận việc chọn lên ngôi.
Quả nhiên Uy Mục rất bạo ngược và say đắm tửu sắc, bắt cung nữ hầu rượu đến khi say thì giết. Khi sứ Tàu sang biết chuyện, gọi Uy Mục là 'Qủy Vương'.
Uy Mục tin dùng người ngoài, tìm những kẻ có sức mạnh làm túc vệ để tránh nội phản. Do vậy Mạc Đăng Dung chỉ là người đánh cá, có sức mạnh thi đỗ Đô lực sĩ, được nhà vua phong chức Đô Chỉ huy sứ, nắm dần quyền hành, trong khi các tôn thất và công thần bị bạc đãi, nên nhiều triều thần bỏ trốn để tránh họa sát thân.
Tháng chạp năm Kỷ Tị 1509, cháu vua Thánh Tông cũng là anh con chú con bác với nhà vua là Giản Tu Công tên Oanh, đang bị giam giữ, tìm cách đút tiền cho người canh ngục, trốn về Tây Đô, hội các quan cựu thần, đem quân ra Đông Đô bắt vua Uy Mục giết đi.
Lê Oanh là con Kiến Vương Tân (Tân là con thứ 5 của vua Thánh Tông, em của vua Hiến Tông, chú của vua Túc Tông và vua Uy Mục), mẹ họ Trịnh, sinh năm Qúy Sửu (1493), thời vua Lê Hiến Tông được phong là Giản Tu Công, tự tôn lên ngôi tháng 10 năm Kỷ Tỵ (1509).
Giản Tu Công giết vua Uy Mục, tự lập làm vua, tức vua Lê Tương Dực, niên hiệu Hồng Thuận.
Nhà vua thích xa xỉ, chơi bời, thu nhiều thuế của dân, rồi sai một người tên Vũ Như Tô xây dựng cung điện 100 nóc, lập Cửu Trùng Đài, tốn nhiều tiền của và sức dân. Lại đóng chiến thuyền, bắt cung nữ chèo trên Hồ Tây, thông dâm với cả các cung nữ triều trước. Sứ giả nhà Minh qua nhận xét Tương Dực có tướng heo, như Trư Bát Giới, nên mới dâm loạn như vậy.
Vì thế giặc giã nổi lên khắp nơi, trong đó có một người tên Trần Cảo ở Hải Dương, đem quân tới bên kia sông Nhị, định tiến sang đánh chiếm kinh đô. Người ta cho Trần Cảo này là hậu thân của Trần Cảo từng bị vua Lê Thái Tổ nhờ đứng ra làm con cháu nhà Trần để cầu phong với nhà Minh, rồi khi bình định xong đất nước lại giết đi?
Thời gian này, có quan Binh Bộ Thượng thư Vũ Quýnh soạn xong bộ Đại Việt Thông Giám.
Nguyên Quận công là Trịnh Duy Sản là tướng giỏi, giúp nhà vua dẹp được nhiều đám giặc, tính trung trực hay can vua, bị vua phạt đánh đòn, nên tức giận mượn cớ đem quân đi đánh giặc, đột nhập giết vua Tương Dực.
Lê Tương Dực trị vì được 8 năm, thọ 24 tuổi.
Lê Y là con của Cẩm Giang Vương Sùng, cháu đích tôn của Kiến Vương Tân, mẹ họ Trịnh, sinh ngày 4-10 năm Bính Dần (1506)
Trịnh Duy Sản giết vua Tương Dực, lập con Mục Ý Vương là Quang Trị mới 8 tuổi lên làm vua. Nhưng Võ Tá hầu là Phùng Mại muốn lập cháu 3 đời vua Thánh Tông là con Cẩm Giang vương tên Y 14 tuổi lên ngôi. Trịnh Duy Sản bắt Phùng Mại chém đầu ngay giữa triều đình lập uy, tôn Quang Trị lên ngôi vua.
Quang Trị mới làm vua được 3 ngày, chưa kịp lấy niên hiệu, bị anh của Trịnh Duy Sản là Trịnh Duy Đại đưa vào Tây Kinh, được mấy ngày thì chết.
Giữa lúc đó Nguyễn Hoàng Dụ thấy anh em họ Trịnh giết vua, chuyên quyền, liền đem quân về kinh thành đốt phá, giết Vũ Như Tô.
Trịnh Duy Sản phải đưa con Cẩm Giang Vương lên làm vua, tức vua Chiêu Tông, tức vị tại Tây Kinh, vì Đông Kinh đã bị phá hủy.
Trần Cảo thấy vua Lê đã vào Tây Kinh, liền đem quân vào Kinh đô, tiếm hiệu xưng là vua. Được ít lâu, Trần Cảo bị Trịnh Duy Sản, Nguyễn Hoàng Dụ, Trịnh Tuy hợp binh đem quân về đánh, khiến Trần Cảo thua to phải bỏ chạy. Trịnh Duy Sản đuổi theo bị Trần Cảo giết. Trần Cảo lại đem binh về vây Kinh đô, bị tướng Trần Chân đánh thua. Trần Cảo chán nản nhường quyền lại cho con, rồi cắt tóc đi tu.
Lúc đó hai tướng Nguyễn Hoàng Dụ và Trịnh Tuy đóng quân hai nơi, chống nhau. Trần Chân bênh Trịnh Tuy đánh thắng Nguyễn Hoàng Dụ, Nguyễn Hoàng Dụ thua bỏ chạy về Thanh Hóa, sau con cháu thành lập nhà Nguyễn ở miền Nam, chống nhau với nhà Trịnh phò vua Lê ở miền Bắc, tạo ra cuộc Nam Bắc phân tranh nội chiến tương tàn đầu tiên trong sử Việt.
Vua sai Mạc Đăng Dung đem quân đi đánh Nguyễn Hoàng Dụ, bị Dụ viết thư riêng phân bày lẽ thiệt hơn, nên Dung không đánh, rút quân trở về.
Bấy giờ Trần Chân cậy thế lực lớn, định khôi phục nhà Trần, bị nhà vua dùng kế mời vào triều rồi giết đi. Các tướng của Trần Chân cả giận đem quân đánh phá kinh thành, khiến vua Chiêu Tông phải chạy sang Gia Lâm, cho người vào Thanh Hóa vời Nguyễn Hoàng Dụ ra giúp, nhưng Nguyễn Hoàng Dụ không ra.
Vua Chiêu Tông không còn trông cậy vào ai, phải cho người tới Hải Dương vời Mạc Đăng Dung về giúp, nhưng khi thấy Mạc Đăng Dung gây thanh thế mạnh, chuyên quyền, nhà vua mưu với các đại thần trừ khử Mạc Đăng Dung, bị thất bại phải trốn lên Sơn Tây. Vua Chiêu Tông vời Trịnh Tuy giúp, rồi chạy vào Thanh Hóa.
Năm 1524 Mạc Đăng Dung đem quân đánh Thanh Hóa, Trịnh Tuy thua chết, Vua Chiêu Tông bị Mạc Đăng Dung bắt giết đi
Vua Chiêu Tông làm vua được 8 năm, thọ 26 tuổi.
Lê Xuân là con của Cẩm Giang Vương Sùng, cùng mẹ với vua Chiêu Tông, sinh ngày 26-7 năm Đinh Mão (1507), lên ngôi tháng 12 năm 1522.
Mạc Đăng Dung lập em của vua Chiêu Tông tên Xuân lên ngôi, là vua Cung Hoàng, đổi niên hiệu là Thống Nguyên để yên lòng dân.
Năm 1527, Mạc Đăng Dung bắt các quan nhà Lê thảo chiếu truyền ngôi cho nhà Mạc, giết vua Cung Hoàng. Triều thần thấy vậy, nhiều người tức giận chửi mắng nhổ vào mặt Mạc Đăng Dung, lấy nghiên mực ném vào mặt Dung, rồi chết. Nhiều người tự tử để bày tỏ lòng trung với nhà Lê.
**
Nhà Hậu Lê giữ ngôi được 100 năm với 10 đời vua, nhưng chỉ có các vua Thái Tổ, Thánh Tông, Hiến Tông lên ngôi khi lớn tuổi, nên làm được nhiều việc giúp phát triển quốc gia.
Còn lại 7 vị vua đều lên ngôi khi còn nhỏ tuổi, bị các triều thần thao túng rồi lâm cảnh ăn chơi sa đọa, khiến việc triều chính sa sút, trong nước biến loạn, lòng dân chán nản, mà mất quyền về tay họ Mạc.
Sau nhà Lê được Trung Hưng, nhưng vẫn bị họ Trịnh làm chúa chuyên quyền áp đảo.
**Đại Việt Sử Ký Toàn Thư:
-'Từ khi trời đất định vị, thì Nam - Bắc chia trị rạch ròi. Phương Bắc dẫu lớn mạnh nhưng không thể đè nén được phương Nam, cứ xem như các thời Lê, Lý, Trần cũng đủ biết. Vì thế, cuối thời Tam Quốc phương Nam có suy yếu, nhưng cũng chỉ có nội loạn mà thôi. Đến như nhà Hồ thì bạo ngược quá đến nỗi nước mất, thân nhục, giặc Bắc hung tàn, dân Nam khốn khổ. May mà lòng trời còn đó, thánh chúa ra đời, chinh phục bằng nghiã, đánh dẹp bằng nhân, non sông mới được đổi mới, nhật nguyệt mới lại sáng tươi. Nhân dân từ đây bình yên, nước nhà từ đây thuận trị. Đó là do vua tôi một dạ, trên dưới cùng lòng vậy. Ôi! loạn tột tất phải trị, nay đã thấy điều này.
-'Thái Tổ từ khi lên ngôi đến nay, thi hành chính sự thực rất khả quan, như ấn định luật lệnh, chế tác lễ nhạc, mở khoa khi, đặt cấm vệ, xây dựng quan chức, thành lập phủ huyện, thu thập sách vở, mở mang trường học... cũng có thể gọi là có mưu kế xa rộng, mở mang cơ nghiệp. Song đa nghi hiếu sát, đó là chỗ kém của ngài!
-'Vua Thái Tổ nối cơ nghiệp của ông cha, gặp buổi đại loạn mà chí càng bền, náu mình chốn núi rừng, làm nghề cày cấy. Do lòng căm thù quân giặc bạo tàn, càng lưu tâm vào các sách thao lược, đem hết của nhà hậu đãi tân khách. Đến năm Mậu Tuất 1418, nhóm nổi nghiã binh, kinh đinh thiên hạ, trước sau trải mấy chục trận, đều là đặt quân phục, dùng kỳ binh, tránh chỗ chắc, đánh chỗ mềm, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh. Đến khi quân Minh đầu hàng thì răn cấm lính không được mảy may xâm phạm. Từ đấy hai nước hòa hiếu, bắc nam vô sự. Mường Lễ, Ai Lao đều sáp nhập bản đồ, Chiêm Thành, Trà Bàn vượt biển sửa lễ cống. Vua mặc áo sớm, ăn cơm trưa, trải 10 năm mà thiên hạ đại trị.
-'Nữ sắc hại người ta quá lắm. Thị Lộ chỉ là một người đàn bà thôi, Thái Tông yêu nó làm thân phải chết, Nguyễn Trãi lấy nó mà cả họ bị diệt, không đề phòng mà được ư?!
-'Vua là bậc hùng tài đại lược, quyết đoán chủ động. Khi mới lên ngôi nghiền ngẫm tìm phương trị nước, đặt chế độ, ban sách vở, chế tác lễ nhạc, sáng suốt trong chính sự, thận trọng việc hình ngục, mới có mấy năm mà điển chương văn vật rực rỡ đầy đủ, đất nước đã đổi thay tốt đẹp. Các nước Trảo Oa, Xiêm La, Tam Phật Tề (Sumatra ngày nay), Chiêm Thành, Mãn Lạt Gia (Malacca ngày nay) vượt biển sang cống. Sau có tên bề tôi trốn tránh là Tông Lai chiêu tập đồng bọn đi trốn làm phản, đặt niên hiệu ngụy và đứa thổ tù Nghiễm ở châu Thuận Mỗi dựa vào Ai Lao dám gây biến loạn. Vua thân chỉ huy sáu quân đi giáng đòn trời phạt. Chỉ một tuần mà Tông Lai nộp đầu, hai lần mà tên Nghiễm bị bắt. Thực xứng đáng là bậc vua anh hùng.
-'Vũ Quỳnh khen: Khi vua lên ngôi mới có 11 tuổi, không phải nhờ mẹ buông rèm coi chính sự, mà mọi việc trong nước đều tự mình quyết định, bên trong chế ngự quyền thần, bên ngoài đánh dẹp di địch. Ngài thông minh trí dũng, còn vượt lên trên cả những vua anh minh đời xưa. Huống chi, ngài lại thể theo lòng trời đất nuôi sống muôn loài, ban hành chính sách xót thương bất nhẫn của bậc đế vương, xử kiện xét tù phần nhiều khoan thứ. Đức hiếu sinh của ngài là cái đức của vua Thuấn xưa. Ôi! những người như vua có thể gọi là hết lòng với việc trị nước vậy.
-'Phan Phu Tiên bàn: Nhân Tông lên nối ngôi vào tuổi ấu thơ, bên trong có mẫu hậu buông rèm trông coi chính sự, bên ngoài các đại thần đồng lòng phò tá trị nước, cho nên trong khoảng 17 năm thiên hạ thái bình, an cư lạc nghiệp, xứng đáng là vị vua nhân từ. Đến lúc cuối đời bị lũ vô lại Đồng - Ban xướng xuất, khiến Lệ Đức hầu Nghi Dân đang đêm bắc thang vào thành, lẻn vào cung cấm, vua và Tuyên Từ hoàng thái hậu đều bị hại. Thương thay!.
'Lại xét bài Trung Hưng Ký năm Quang Thuận viết: Nhân Tông mới lên 2 tuổi đã sớm nối ngôi vua,
Thái hậu Nguyễn Thị là gà mái gáy sớm,
Đô đốc Lê Khuyên như thỏ khôn giữ mệnh.
Vua đàn bà mắt quáng buông rèm ngồi chốn thâm khuê, bọn họ ngoại lòng tham khoác lác hoành hoành khắp cõi, kẻ thân yêu nắm quyền vị, nạn hối lộ được công khai.
Việc văn giáo lặng lẽ như băng tan, người hiền từ phải bó cánh. Bậc túc nho như Lý Tử Tấn, Trình Thuấn Du thì đẩy vào chỗ nhàn, phường đốt đặc ồn ào như ong đàn nổi dậy, như chó chuột nhe răng.
Tề thần như Lê Sáng, Lê Sát thì ngu si không phân biệt sáu loài súc vật, Chưởng binh Lê Điển, Lê Luyện thì mù tịt, chẳng sao hiểu được bốn mùa một năm.
Bậc lương thần như Trịnh Khả, Khắc Phục thì kèn cựa mà giết đi, người tài sĩ như Nguyễn Mộng Tuân thì đầy vào vòng tai họa. Oan uổng không chỉ kêu xin, mọi việc thảy đều đổ nát. Văn giai như Công Soạn tuổi gần tám mươi, tể thần như Lê Ê không biết một chữ.
Người trẻ không biết nghĩ làm bậy ngông cuồng, người già chẳng chết đi trở thành mối họa. Bán quan mua kiện, ưa giàu ghét nghèo.
Hiền tài là rường cột của triều đình mà sạch không như quét đất.
Văn chương là khí vận của nhà nước mà im ắng tựa cỏ khô.
Bọn xiểm nịnh được tin dùng, kẻ đao bút được tiến cử.
Hành khiển Nguyễn Hữu Quang, Nội mật Lê Hoài Chí, quan hoạn chừng năm sáu bọn mà không một người đóng cửa cho nghiêm; Cấm vệ Lê Đắc Ninh, Chỉ huy Lê Hoằng Dục, vệ sĩ đến tám chín lũ mà không một ai mang mộc che chở. Lòng người sôi động, đường sá xôn xao.
Họ ngoại như Văn Lão, Xương Lê, lòng như quỷ quái, vị không như Trần Lựu, Đỗ Tự ai chẳng cười chê?
Cửa ngõ thì sơ sài, tay không cũng phá nổi. Thế là nó dẫn quân cú vọ cáo cầy, ngầm nuôi mưu kế cướp ngôi phản nghịch.
Bọn tặc thần Phạm Đồn, Phan Ban, Trần Lăng, Ngô Trang và phường chó lợn hơn 300 đứa, nửa đêm dám cả gan bắc thang trèo tường lẻn vào như là chỗ không người. Vua và Hoàng Thái hậu đều bị hại, thương thay!
-'Văn bia Mục Lăng của Nguyễn Bá Ký viết:
Vua Nhân Tông thần sắc anh tuấn, dáng điệu đường hoàng. Một khi tan chầu tự đến Kính điện nghe giảng, mặt trời lặn mới thôi.
Khi đã tự mình trông coi chính sự thì tế lễ thần linh, truy thờ tông miều.
Đối với Thái hậu dốc lòng hiếu thảo, đối với anh em trọn nghiã yêu thương hòa thuận với họ hàng, kính lễ với đại thần, tôn sùng đạo Nho, xét những lời thiển cận, nhận những lời can trung, chăm nom chính sự, thận trọng thưởng phạt, coi trọng nghề nông, chú ý nền gốc, hết lòng thương dân, không thích xây dựng, không mê săn bắn, không gần thanh sắc, không ham tiền của, hậu với người, bạc với mình, trong ấm ngoài êm.
Vua răn cấm tướng ngoài biên không được gây hấn khích.
Đến khi Chiêm Thành hai lần vào cướp châu Hóa, mới sai tướng đem quân đi đánh, bắt được chúa nó là Bí Cai. Nước lớn sợ uy, nước nhỏ mến đức. Mọi điều chính sự đều theo điển chương phép tắc cũ đã có sẵn, sai nghị thần nghị bàn cho thích đáng rồi sau mới thi hành. Cho nên chính trị hay, giáo hóa tốt ban khắp ra bốn cõi, sinh linh mến đức, đời được thái bình. Ngài băng thình lình, trăm họ như mất cha mất mẹ.
Ôi! tư chất của vua như vậy mà gặp phải tai biến như vậy, thì chẳng phải là trời đất rộng lớn dường ấy mà loài người vẫn còn có chỗ đáng tiếc đó sao?!
-'Đinh Tỵ, Hồng Đức năm thứ 28 (1497), vua Lê Thánh Tông ốm nặng, bèn tựa kỷ ngọc, lệnh cho Hoàng thái tử lên nối ngôi.
Vua lúc sắp băng, có bài thơ tự thuật rằng:
''Năm chục hoa niên, bảy thước thân,
''Lòng như sắt cứng bỗng mềm dần.
''Gió lay khô héo hoa bên cửa,
''Sương dãi gầy mòn liễu trước sân.
''Trời biếc xa trông, mây thăm thẳm,
''Kê vàng tỉnh giấc, đối bâng khuâng.
''Khuất lời cách mặt, non Bồng vắng,
''Băng ngọc du hồn nhập mộng chăng?
-'Sử thần Vũ Quỳnh nhận định: Vua Thánh Tông tư trời cao siêu, anh minh quyết đoán, có hùng tài đại lược, võ giỏi văn hay mà cái học của thánh hiền lại đặc biệt siêng năng, tay không lúc nào rời quyển sách.
Các tập kinh sử, các sách lịch toán, những việc thánh thần, không có gì không bao quát tinh thông. Văn thơ thì vượt trên cả những khuôn mẫu của các văn thần. Cùng với bọn Nguyễn Trực, Vũ Vĩnh Mô, Thân Nhân Trung, Quách Đình Bảo, Đỗ Nhuận, Đào Cử, Đàm Văn Lễ biên soạn bộ Thiên Nam Dư Hạ, tự đặt hiệu là Thiên Nam Động Chủ, Đạo Am Chủ Nhân. Lại sùng chuộng Nho thuật, nâng đỡ nhân tài.
Khoa thi chọn kẻ sĩ không chỉ có 1 khóa, lệ định 3 năm một lần thi lớn là bắt đầu từ nhà vua.
Người hiền tài chọn được nhiều hơn cả đời xưa. Văn võ đều dùng theo sở trường của từng người. Vì thế có thể sử dụng chính sự, chế tác lễ nhạc, hiệu lệnh văn chương rõ ràng, có thể cho người sau noi theo.
Trước đây khi vua còn làm phiên vương, vẫn tự giấu tài; đến khi nước gặp đại biến, các quan lật đật đón lập lên. Khi vào nối đại thống, vua biết bọn Đồn, Ban đã bị giết, nhưng Lạng Sơn thân vương lại bị hại, ngài bùi ngùi không vui, có lòng thương xót, trách là cốt nhục tương tàn để cho người ngoài lợi dụng, anh em một nhà đều bị tai họa.
Ban đầu, vua không lấy việc được làm vua là vui, cũng không vì những biến cố lúc đó mà lo. Cho nên hào kiệt bấy giờ ai cũng suy tôn, kính phục.
Các tướng lĩnh rông rỡ kiêu ngạo lần lượt bị giết. Vì thế, lấy tội lỗi người trước làm gương, trong ngoài đều nghiêm cẩn.
Đặt hai vệ Cẩm Y, Kim Ngô, các ty Thần Tử, Điện Tiền... lấy người thân làm chức chỉ huy, dùng họ nhà mẹ làm việc duyệt xét.
Lại chọn bề tôi tin cẩn để làm nanh vuốt tay chân, như bọn Nguyễn Phục, Hoàng Nhân Thiêm, Đỗ Hùng, Vũ Lân đều hầu quanh tả hữu.
Vua chỉ rũ áo khoanh tay mà trong nước yên ổn.
Vua lại nghĩ giặc Chiêm đời đời vẫn là mối lo của ta, ngày nay không diệt đi, sau này làm gì được nó.
Thế là phiá nam thì đánh Trà Toàn mà lấy lại bờ cõi nó, phía tây thì đánh Nhã Lan mà quét sạch sào huyệt nó.
Đánh Sơn Man mà uy thanh vang dội phương bắc, đánh Bồn Nam mà đất mở rộng phương tây.
Quy mô xếp đặt, công nghiệp trung hưng, có thể sánh với Thiều Khang nhà Hạ, nối gót được Tuyên Vương nhà Chu, mà khinh hẳn Quang Vũ nhà Hán, Hiến Tông nhà Đường là hạng dưới vậy. Tiếc rằng vua nhiều phi tần quá, nên mắc bệnh nặng. Trường Lục hoàng hậu bị giam ở cung khác, đến khi vua ốm nặng mới được đến hầu bệnh, bèn ngầm dấu thuốc độc trong tay mà sờ vào chỗ lở, bệnh vua do vậy mới lại thêm nặng.
-'Bài tán do bọn Thân Nhân Trung soạn, viết rằng:
''Đức vua Thánh Tông,
''Nghiệp lớn thừa kế.
''Lịch số về mình,
''Thần dân thỏa chí.
''Giữ báu nắm phù,
''Phát lệnh chính vị.
''Giữ trung: học tổ,
''Dựng cực: thừa thiên.
''Nhân bồi hậu thế,
''Hiếu kính tổ tiên.
''Văn sáng Khuê, Bích,
''Học sâu uyên nguyên.
''Theo điển, dùng lễ,
''Lánh gian, thân hiền.
''Trị nước, chín kinh,
''Dùng quân tám binh.
''Triệu dân vỗ yên,
''Trăm việc chấn chỉnh.
''Văn giáo rộng ban,
''Vũ công đại định.
''Sơn Lạo trốn xa,
''Bồn Man theo mệnh.
''Duy giặc Chiêm ấy,
''Truyền kiếp cựu thù.
''Cõi Nam quấy rối,
''Xâm chiếm bốn châu.
''Quân hổ kéo tới,
''Thuyền rồng ngồi cao.
''Chà Bàn cháy trụi,
''Thi Nại huyết lưu.
''Trà Toàn nộp mạng,
''Thanh miếu dâng tù.
''Muôn dặm mở đất,
''Nghìn xưa trả thù.
''Ngu xuẩn Lão Qua,
''Chống lại thanh giáo.
''Vua nổi thịnh nộ,
''Dấy quân chinh thảo.
''Cờ mao phất lên,
''Giặc đều quay giáo.
''Trúc chẻ, tro bay,
''Quét tan hang cáo.
''Ba cõi lặng yên,
''Chín di thông đạo.
''Thịnh ngang Hoàng Đế,
''Tục sánh Ngu Chu.
''Nhân sâu, ơn nặng,
''Trải bốn mươi thu.
**Thiên Nam Ngữ Lục:
''Thuở ấy Thái Tổ Cao Hoàng,
''Dấy binh nhân nghiã mở mang cõi bờ.
''Kể trong đã mười thu dư,
''Ra tay dọn hết tanh nhơ làu làu.
''Uy trời ai dám chống đâu,
''Thằng Thạnh, đứa Liễu treo đầu côn qua.
''Giết Ngô như cắt cổ gà,
''Người người mừng rỡ, nhà nhà hả hê.
''Xa thư một mối thu về,
''Long thành xem trị thùy y cửu trùng.
''Dõi truyền Thánh Tổ, Thần Tông,
''Cha con trao chịu, cháu ông giữ cầm.
''Đời vừa chín mươi chín năm,
''Tôi hiền chúa thánh vui làm quy mô.
''Muôn dân nhà đủ người no,
''Nước lặng bằng tờ, trị khỏe bằng non.
''Lạ gì bội thực mất ngon.
''Rượu nếu uống dồn người dễ nên say.
''Sự cơ tạo hóa khôn hay,
''Trời có đêm ngày, vật có thịnh suy.
''Cỏ cây cũng vậy khác gì,
''Xuân về hoa nở, thu đi lá dời.
''Có yêu, có ghét sự đời,
''Nở cành xanh ngọn ở người xới vun.
''Chưng khi thế đã chon von,
''Nước nghèo, chủ ấu tôi con giữ gìn.
''Lẽ nào mà chẳng bằng an,
''Lẽ nào mà chẳng vẹn toàn giang sơn.
''Giận thay cây cỗi rễ mòn,
''Khỏi cơn gió Sở, lại cơn mưa Tần!
**Lê Ngô Cát - Phạm Đình Toái:
''Mới hay cơ tạo xoay vần,
''Có khi bĩ cực đến tuần thái lai.
''Thiếu chi hào kiệt trong đời,
''Non xanh nước bạc có người kinh luân.
''Lương giang trời mở chân nhân,
''Vua Lê Thái Tổ ứng trần mới ra.
''Lam Sơn khởi nghiã từ nhà,
''Phong trần lắm lúc kể đà gian nguy.
''Lạc Xuyên đầu giết Mã Kỳ,
''Nghệ Thanh một giải thu về bản chương.
''Chia quân kinh lược mọi đường,
''Hai kinh đã định, bốn phương cũng bình.
''Vương Thông bền giữ cô thành,
''Viện binh hai đạo Bắc đình tiếp sang.
''Trời nam đã có chủ trương,
''Mà cơ chế thắng miếu đường cũng tinh.
''Chi Lăng các đạo phục binh,
''Liễu Thăng. Mộc Thạnh liều mình nẻo xa.
''Vương Thông thế túng cầu hòa,
''Quyền Phong Trần Cảo gọi là Quốc vương.
''Ngôi thiêng sao xứng tái thường,
''Trần Công trẫm sát để nhường long phi.
''Thuận Thiên niên hiệu cải đề,
''Non sông mới thuộc về Lê từ rầy.
''Quan danh, quân hiệu mới thay,
''Bản đồ đổi lại huyện này, phủ kia.
''Dựng nhà học, mở khoa thi,
''Triều nghi, quốc luật một kỳ giảng tu.
''Mười năm khai sáng cơ đồ,
''Sáu năm bình trị qui mô cũng tường.
''Thái Tông mở rộng khoa trường,
''Lập bia tiến sĩ trọng đường tư văn.
''Chín năm nối nghiệp cơ cần,
''Viễn di mến đức, cường thần sợ uy.
''Tuổi xanh hoang túng nhiều bề,
''Vườn xuân lắm lúc say mê vì tình.
''Đông tuần về đến Bắc Ninh,
''Riêng tình Thị Lộ quên mình bởi ai?
''Nhân Tông tuổi mới lên hai,
''Quyền trong mẫu hậu chính ngoài thần công.
''Mười năm một hội đại đồng.
''Văn mô rạng trước, vũ công phục ngoài.
''Đánh Chiêm Thành, bắt Bí Cai,
''Đồ Bàn, Cổ Lũy các nơi hướng tiền
...
''Thánh Tông cốt cách thần tiên,
''Lại thêm kinh thánh truyện hiền gia công.
''Quốc âm, Đường luật tinh thông.
''Thiên văn, toán pháp, binh nhung cũng tường.
''Tài cao mại, đức thủ thường,
''Kiến văn đã rộng, thi trương cũng già.
''Ba năm lại mở một khoa,
''Tân hưng đại tị theo nhà Thành Châu.
''Nhạc âm, lễ chế giảng cầu,
''Quang danh, phục sắc theo trào Đại Minh.
...
''Túc Tông số lẻ vận suy,
''Để cho Uy Mục thứ chi nối đời,
''Đêm ngày tửu sắc vui chơi,
''Tin bề ngoại thích, hại người từ thân.
...
''Phương ngoài Trần Cảo lộng binh,
''Mà trong Duy Sản mống tình loạn quân.
''Đem quân vào cửa Bắc thần,
''Bích Câu một phút mông trần bởi ai?
''Giềng Lê khi đã đổi đời,
''Mặc tay Duy Sản đặt người chủ trương.
**Trần Trọng Kim:
-'Vua Thái Tổ vẫn là một ông vua anh tài, đánh đuổi được giặc Minh, mà lại sửa sang được nhiều công việc ích lợi cho nước. Nhưng khi ngài lên làm vua rồi, có tính hay nghi ngờ, chém giết những người công thần như ông Trần Nguyên Hãn và ông Phạm Văn Xảo. Hai ông ấy giúp ngài đã có công to, về sau chỉ vì sự gièm pha mà đều phải chết oan cả. Nghĩ mà buồn thay cho mấy người công thần đời xưa, chỉ lầm về hai chữ công danh, mà đem tấm lòng son sắt đi phù tá quân vương trong lúc nguy nan, mong được chút hiển vinh để cho thỏa cái chí trượng phu ở đời. Ngờ đâu: chim bay đã hết, cung tốt cất đi, thỏ nhanh chết rồi, chó săn phải giết; đến khi công việc xong rồi, thì không những là một thân mình cũng không được trọn vẹn, mà cả họ hàng thường cũng phải vạ lây!
-'Xem những công việc của vua Thánh Tông thì thấy ngài thật là một đấng anh quân. Những sự văn trị và sự võ công ở nước Nam ta không có đời nào thịnh trị hơn đời Hồng Đức. Nhờ có vua Thái Tổ thì giang sơn nước Nam mới còn, và nhờ có vua Thánh Tông thì văn hóa nước ta mới thịnh. Vậy nên người An Nam ta không bao giờ quên công đức hai ông vua ấy.
**Đào Duy Anh:
'Sau một cuộc đấu tranh ròng rã 10 năm, quân ta đã quét sạch quân Minh mà thu hoàn toàn thắng lợi. Cuộc khởi nghiã này là một cuộc cách mệnh dân tộc nhằm mục đích lật đổ chính quyền ngoại tộc để dựng nền tự chủ dân tộc. Điều kiện cần thiết cho một cuộc vận động như thế thành công, là được toàn thể nhân dân hưởng ứng, được các phần tử ưu tú của dân tộc tham gia, và có phần tử lãnh đạo kiên quyết và sáng suốt.
**Phạm Văn Sơn:
-'Nhân tài một quốc gia không thể đầu hôm sớm mai mà nảy nở được, nếu ai cũng theo Trương Tử Phòng sau khi trị loạn rồi thì tích cốc tòng tiên, vậy sứ mệnh bình trị để ai gánh vác? Ngoài ra các danh thần, lương tướng sau việc dẹp loạn yên dân, cũng còn nhiều hoài bão giúp nhà giúp nước thêm nữa, đâu có thể nửa đường dứt gánh cho đành.
-'Từ đời Thái Tổ đến Thánh Tông, hùng khí của dân tộc Việt Nam mạnh như sóng cồn. Nếu đem so sánh Việt Nam với các lân quốc Á Châu, thì ta có thể tự hào rằng mình là một quốc gia cường thịnh bậc nhất ở Đông Nam Á về mọi phương diện. Văn trị, võ công rạng rỡ đến thế là tột bậc, cả đến vấn đề cương vực cũng được mở rộng hơn bao giờ hết. Ta nhớ rằng dưới đời Hậu Lê, biên giới Việt Nam đã đi sâu vào đất Chàm, vua Thánh Tông đã xua đuổi Chiêm quân đến Phan Lung, rồi chia Chiêm quốc ra làm 3 tiểu quốc. Trong giai đoạn lịch sử này, ngó về cục diện Âu Châu, ta thấy nước Pháp vừa mới phục hồi được ít lâu sau cuộc Bách Niên Chiến Tranh (Guerre de cent ans) và nước Anh còn đang đau khổ trong các cuộc khói lửa vô cùng tàn hại (Guerre des deux Roses) trên khắp mọi nơi của Đảo quốc. Đây là nhận xét của giáo sư Jean Chesneaux - tác giả cuốn
''Contribution à l'histoire de la Nation Vietnamienne'', xuất bản tại Paris năm 1955, kể ra để khen ngợi đời Hồng Đức, nước Việt Nam đã văn minh thịnh trị, ngay so cả với nhiều nước lớn ngày nay ở Âu Châu vào thời ấy. Đáng tiếc đến hết thời vua Thánh Tông thì cái đà tiến hóa của dân tộc bị ngừng lại. Lý do của sự ngừng tiến là bởi các vua kế vị Thái Tổ, Thánh Tông, Hiến Tông đều nhỏ tuổi cả, và như thế kém cả tài lẫn đức nên không những không thúc đẩy thêm được cái đà tiến hóa của dân tộc, mà còn đi đến chỗ dật lùi, rồi dần sa vào hố suy vong.
Nhận định:
Có thể nói thời vua Lê Thánh Tông là thời kỳ thịnh trị nhất trong lịch sử Việt Nam từ trước tới nay. Tiếc thay các đời vua, các nhà lãnh đạo chính trị của các triều đại và chính phủ về sau, đã không biết lấy đó để nghiên cứu các ưu điểm hầu phát huy.
Đây phải chăng chính là sự suy đồi do vọng ngoại & tha hóa của các nhà lãnh đạo tại Việt Nam, dẫn đến sự suy vong của đất nước, khiến hết mất nước vì Tàu đến Tây, nay đến Cộng sản Nga Hoa?!
Nghiên cứu về sự thành công vượt bậc dưới đời vua Lê Thánh Tông, chúng ta thấy vị vua này rất trọng việc giáo dục & đào tạo, khuyến học trong mọi ngành nghề văn võ, hạn chế bớt ảnh hưởng của các tôn giáo... khiến ai nấy ham học mà biết điều phải trái, tu thân sửa tính, trau giồi nghề nghiệp, phát huy khả năng... giúp đất nước phát triển chính khí mới có thể hùng mạnh như vậy.
Ngày nay trước họa Cộng sản, đất nước bị bọn lãnh đạo Cộng sản Việt Nam xuất thân từ cái học 'Trồng Người' theo lối ngu dân của Hồ Chí Minh, khi tới đâu cũng đốt sách cũ (Hà Nội sau 1954 - Sài Gòn sau 1975), nêu chủ trương 'Hồng hơn Chuyên', kỳ thị người tài, khinh thường học thức; đưa lũ ngu dốt tham tàn nắm chức lớn, cậy quyền lộng hành, coi phép nước như không có, tha hồ tham ô vơ vét tài sản đất đai; cái gì cũng của Đảng, do 'Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý' còn nhân dân chẳng có gì, đến độ bị trưng thu mất hết nhà cửa ruộng vườn, nghèo xác xơ, hình thành một lớp 'dân oan' đông đảo chưa từng thấy!
Cuối cùng khi bị dân chúng chống đối mạnh mẽ thì dâng dần đất nước cho Trung Cộng, lấy chỗ dựa để tiếp tục chuyện buôn dân bán nước, mà không biết nhục - do lối trồng người rất vô luân khi bắt quân đội 'Trung với Đảng' chứ không 'Trung với Nước'?!
Rồi đánh đồng Đảng với Tổ Quốc, để hài tội phản quốc với bất cứ ai phản đối khi nêu chính kiến?!
Vì vậy hơn bao giờ hết, người có học cần cùng nhau nghiên cứu sâu xa về vấn đề giáo dục nhân luân, đào tạo nhân tài, thượng tôn tinh thần dân tộc Nhân Trí Hùng truyền thống, mới có thể hóa giải các mâu thuẫn do cái học ngoại lai từ nhiều phiá, làm cho vong bản tha hóa chia rẽ bấy nay gây ra?
Những kiến thức ngoại lai chẳng khác gì chuyện người mù sờ voi, ai cũng đúng nhưng chỉ đúng trong phạm vi hiểu biết của mình mà thôi.
Sai lầm tai hại ở chỗ ai cũng như người mù sờ voi, tự cho mình đúng, cả quyết người khác sai? Mà không chịu hiểu rằng ai cũng đúng nhưng chỉ đúng trong phạm vi hạn hẹp riêng tư, nên cần cùng nhau kết hợp mới có thể đạt phần nào kiến thức sâu rộng của biển học mông mênh, đi từ chỗ 'Học Thức' lên chỗ 'Trí Thức'.
Copyright © 2024 Giao Su XKZ - All Rights Reserved.
Powered by GoDaddy
We use cookies to analyze website traffic and optimize your website experience. By accepting our use of cookies, your data will be aggregated with all other user data.